Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
レリ刀ん
Xem chi tiết
ミ★ήɠọς τɾίếτ★彡
26 tháng 3 2021 lúc 20:27

Tiếng Việt là tài sản vô cùng quý giá, nó không chỉ là phương tiện quan trọng trong các hoạt động giao tiếp mà còn được ví như một thứ “căn cước” của nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập đã và đang xuất hiện những biến tướng, lai căng cần phải được xem xét chấn chỉnh, định hướng kịp thời để bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

duong vu minh khanh
Xem chi tiết
Nguyễn Minh
16 tháng 12 2020 lúc 14:07
Nguyễn Công Tuấn
Xem chi tiết
VuongTung10x
15 tháng 4 2020 lúc 10:24

Câu nói của thầy Ha-men "... khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù...". Câu nói này chính là chân lí của cả câu chuyện. Nó khẳng định và làm nổi bật giá trị thiêng liêng, sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đáp bầng sự sáng tạo cùa bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói cùa dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.

Chúc bạn học tốt 

Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Công Tuấn
21 tháng 4 2020 lúc 9:06

cảm ơn bạn nhé

chúc bạn học tốt

Khách vãng lai đã xóa
LcLc
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
7 tháng 8 2017 lúc 2:54

Nhà thơ Chế Lan Viên muốn khẳng định, tiếng Việt chúng ta rất phong phú, trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt

Điều này thể hiện rõ trong tiếng nói của người nông dân, người lao động, cha ông ta thời xưa

→ Chính vì vậy muốn bảo tồn được sự giàu có của tiếng Việt cần trau dồi vốn từ.

sky
Xem chi tiết
Tran Le Khanh Linh
17 tháng 2 2020 lúc 14:27

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Thế nhưng, hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực.

Đáng quan tâm nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng. Dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời mà chưa có trong tiếng Việt, nên phải dùng những thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài khi nói và viết tiếng Việtnhư Internet, trang web…, song đáng chê trách nhất vẫn là việc dùng chữ viết nước ngoài (chủ yếu là chữ Anh) thay cho chữ Việt vốn đã có sẵn, đủ nghĩa, dễ hiểu, trong sáng như show (biểu diễn), live-show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)… một cách tự nhiên như thể đó là những từ tiếng Việt mà ai cũng hiểu.

Có ý kiến ngụy biện cho rằng hiện tượng này nên khuyến khích vì đấy là một cách học và thực hành tiếng Anh, một công cụ không thể thiếu để hội nhập quốc tế. Nhưng thực ra, muốn thực hành ngoại ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nói, viết hẳn bằng tiếng nước ngoài mà mình học ở các lớp học ngoại ngữ, các lớp đại học dạy bằng tiếng nước ngoài, hoặc tạo cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài ở Việt Nam… Còn khi nói và viết tiếng Việt thì tránh dùng tiếng lai, trừ trường hợp bất đắc dĩ. Các cụ xưa gọi người sính dùng chữ gốc Hán là người “hay chữ lỏng” và có câu nói “dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”.

Hồi nước ta còn thuộc Pháp, thói quen dùng chen tiếng Pháp cũng khá phổ biến và được gọi là nói “tiếng lai”. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào cứu quốc, nâng cao tinh thần dân tộc thôi thúc sinh viên, học sinh từ bỏ cách nói chen tiếng Pháp. Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước đây thường tự mình nêu gương sáng và thường nhắc nhở mọi người tránh bệnh nói chữ, sính dùng từ gốc Hán khi có thể diễn đạt bằng tiếng Việt. Ví dụ như vì sao báo chí, hay thậm chí cả trong văn bản chính thức của nhà nước, thường dùng cụm từ “người tham gia giao thông” thay cho “người đi đường”?

Thực tế, người dân không bao giờ sử dụng từ “tham gia giao thông”. Người ta thường dặn dò nhau “đi đường phải cẩn thận” chứ chẳng ai nói “tham gia giao thông phải cẩn thận” bao giờ! Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo tấm gương Bác Hồ, Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai cũng là một khía cạnh thể hiện niềm tự hào và tôn trọng ý thức dân tộc trong ngôn ngữ, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Khách vãng lai đã xóa
Tom and Jerry ***
Xem chi tiết
Kẹo dẻo
27 tháng 8 2016 lúc 20:16

Ý 2:

Điều bạn có thể làm 
Thứ nhất, dù bạn bè làm gì đi nữa thì hãy hiểu rằng chính bạn mới là người phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. 

Thứ hai, hãy nhận ra áp lực nào có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với bạn. 

Kế tiếp, hãy tự hỏi: “Bạn gặp nhiều áp lực nhất là khi nào?” (Khi ở trường học? Sở làm? Nơi khác?). Biết được khi nào áp lực xảy ra có thể giúp bạn tránh khỏi điều đó.

Thứ ba,Từ chối ngay. Nếu là cùng hoặc nhỏ tuổi hơn thì nên khuyên nó xem thế nào hoặc biết người thân của nó thì báo cho họ. Nếu lớn hơn mình thì nên tránh mặt hoặc bảo người thân của mình.

Kẹo dẻo
27 tháng 8 2016 lúc 20:18

Tại sao chúng ta nên gìn giữ các giá trị truyền thống của dân tộc? Đây là một đề tài nhàm chán theo kiểu “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Tất cả các kênh truyền thông chính thống đều ra rả kêu gọi giới trẻ quay trở về với những giá trị truyền thống và cố gắng cưỡng ép đưa những chi tiết “đậm đà bản sắc dân tộc” vào chương trình của mình. Thế nhưng có vẻ như điều này vẫn vô vọng, giới trẻ đa số vẫn thờ ơ với truyền thống.

Truyền thống không phải lúc nào cũng đều đúng và thật sự cần thiết. Truyền thống là một dạng khuôn mẫu của các thói quen được lặp đi lặp lại, và thói quen thì có thể thay đổi theo sự luân chuyển của thời đại. Đó là lý do tại sao rất nhiều những truyền thống dân tộc rất khó để gìn giữ khi có sự va chạm văn hóa với các dân tộc khác, và nhất là trong thời đại “thế giới phẳng” như ngày nay. Nhiều truyền thống đã mất đi như mặc áo tứ thân, nhuộm răng đen, tóc búi tó…  Nỗ lực khôi phục những loại hình văn hóa dân tộc như ăn trầu cau, nghe ca trù, xem hát chèo, …v…v… gần như bất khả thi. Vì rõ ràng ở thời đại ngày nay, chúng ta đã mất đi thói quen với những truyền thống này. Gìn giữ chúng, ghi chép lại chúng, như một sự bảo tồn, điều này khả thi hơn. Tuy nhiên có những truyền thống không cần cố công gìn giữ, chúng vẫn cứ tồn tại. Ví dụ như việc ăn cơm, cho dù KFC, Pizza, mỳ Ý… có ngon đến mấy, thì người Việt vẫn thích ăn cơm. Tại sao vậy? Vì ở một xứ nhiệt đới như Việt Nam, nếu ăn thường xuyên các sản phẩm làm từ lúa mì sẽ dẫn đến hiện tượng nóng trong người và khó tiêu hóa. Hơn thế nữa, thời tiết nóng ẩm gây ra nhiều bệnh tật, người Việt cần tăng sức đề kháng của cơ thể, sức đề kháng này có được từ hàm lượng B1 rất lớn có trong hạt gạo. Truyền thống này chỉ có thể thay đổi nếu có sự dịch chuyển lục địa ở một tương lai rất xa. Vậy thì, những truyền thống nào có sự gắn bó mật thiết đến sự sinh tồn của cộng đồng người thì đó là những truyền thống khó có thể lay chuyển. Tuy nhiên, ở bài viết này, tôi muốn nói đến một số truyền thống nên được giữ gìn như một sự tạo dựng vẻ đẹp tâm thức của người Việt. Đây thường là truyền thống có ý nghĩa về mặt tinh thần, một dạng tâm thức chung, nét tính cách căn bản của dân tộc.

Truyền thống tinh thần từ đâu mà có

Nếu nhìn ở góc độ duy vật, ta sẽ thấy rằng, truyền thống tinh thần là sự đúc kết các kinh nghiệm sinh tồn và phát triển cộng đồng của tổ tiên chúng ta trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là kinh nghiệm ứng xử giữa con người với tự nhiên, con người cùng một dân tộc,  giữa dân tộc mình với dân tộc khác – kinh nghiệm của chữ “nhẫn”

Người Trung Quốc cười nhạo chữ “nhẫn” này là hèn hạ và tiểu nhân, người phương Tây thì cho  rằng đây là biểu hiện của việc không có chí tiến thủ, nhưng “nhẫn” là cách duy nhất để người Việt chúng ta tồn tại cho đến nay. Việt Nam nằm trong một khu vực nhiều biến động khí hậu bất thường, vậy nên đối mặt liên tục với các tai họa tự nhiên đã trở thành điều quen thuộc, xây đắp dần nên khả năng chịu đựng gian khổ của người Việt. Bởi không chịu đựng thì không còn cách nào khác sinh tồn trên mảnh đất này. Hơn nữa, nước ta nằm cạnh đế chế Trung Hoa hiếu chiến và hùng mạnh, nếu không mềm dẻo trong ngoại giao và sử dụng cách đánh du kích để tỉa dần lực lượng của địch thì có lẽ từ lâu dân tộc chúng ta đã bị thôn tính như Hung Nô, Thổ Phồn, Tây Hạ, Mãn Thanh… rồi. Không thể đòi hỏi dân tộc ta giống các dân tộc ở phương Bắc và phương Tây. Người phương Bắc và người phương Tây là những nền văn minh được xây dựng bằng săn bắn và chiến tranh chiếm thành, chiếm đất. Họ liên tục trên lưng ngựa, họ cần tốc chiến tốc thắng, không có chỗ cho sự kiên nhẫn, bởi kiên nhẫn thì thời cơ sẽ đi qua. Nhịp sống của họ nhanh hơn chúng ta là điều hoàn toàn dễ hiểu.  Binh pháp của người Trung Hoa bàn về cách đánh thành, chiếm thành, lấy công làm thủ. Trong khi “Binh thư yếu lược” của Hưng Đạo Vương lại đưa ra kế “thanh dã” (vườn không nhà trống), là dạng kế sách từ bỏ sĩ diện trước mắt, lánh bỏ kinh đô, trốn vào chỗ hiểm yếu và dần làm suy yếu quân lực của đối thủ. Đây là biểu hiện của chữ “nhẫn”.

Chữ “nhẫn” bên cạnh việc giúp chúng ta sinh tồn, còn giúp chúng ta tạo được gắn kết cộng đồng. Một người biết nhẫn là một người biết tiết chế sự cảm tính của bản thân, lùi lại một bước để nhận biết rõ thực tại, tìm ra cách ứng xử với xung quanh sao cho hợp lý. Nhiều học giả sùng bái phương Tây phê phán đức tính nhẫn nhịn  làm hạn chế tự do cá nhân, trói buộc người Việt Nam, tạo cho dân Việt sự giả dối trong hành xử. Điều này không sai, nhưng tầm nhìn của mấy học giả đó quá hạn hẹp. Cảm xúc của một người thuộc về người đó, họ có thể tự do bộc lộ khi ở không gian riêng của mình, tại sao lại phải bắt một ai đó khác chịu đựng. Nếu là cảm xúc tốt thì việc bày tỏ không vấn đề gì nhiều, nhưng cảm xúc tiêu cực khi bị bộc phát sẽ gây ra hiểu lầm và mâu thuẫn. Vậy bột phát cảm xúc với người khác, một kiểu hành xử rất phương Tây, không có ích gì nhiều với cộng đồng người Việt. Một dân tộc phải đối phó liên tiếp với thiên tai địch họa, cần nhất một chữ “hòa”, và “hòa” chỉ có thể đạt được khi chữ “nhẫn” được sử dụng.

Ở góc độ duy tâm, có một thứ được gọi là hồn thiêng sông núi, được hình thành từ dòng năng lượng của vùng đất nơi chúng ta đang sống. Hồn thiêng sông núi này ảnh hưởng trực tiếp đến tâm thức của con người sống tại đó. Nước ta là đất nước của sông hồ, năng lượng âm tính mạnh mẽ, tính nữ mạnh hơn tính nam, khác hoàn toàn với những vùng đất có nhiều núi đồi thảo nguyên như phương Tây. Bởi thế, dân tộc ta mang màu sắc của tính nữ, của sự mềm dẻo. Truyền thống tinh thần chịu sự chi phối của hồn thiêng sông núi, của dòng năng lượng chung mạnh mẽ này. Những người cố cưỡng lại dòng năng lượng này, học theo phương Tây hay Trung Quốc một cách mù quáng, nôn nóng muốn thành công bằng sức mạnh dương cương, chỉ nhanh chóng chuôc lấy bại vong. Tóm lại, “nhẫn” và “hòa” vẫn là những đặc tính dễ nhận biết của năng lượng tính nữ.

Gìn giữ truyền thống tinh thần là nền tảng tạo lập tương lai

Chúng ta có thể có trong đầu kiến thức của cả nhân loại nhưng ngu dốt về chính dân tộc mình thì chúng ta chỉ đưa nhau đến sự hỗn loạn. Bằng thế lực nọ hay vận may kia, ai đó có thể đạt được sức ảnh hưởng lên cộng đồng và tự đắc với quyền lực mình có trong tay, nhưng với sự ngu dốt này, họ sẽ đưa cộng đồng đến sự suy thoái không thể tránh khỏi trong mọi mặt của đời sống xã hội. Hiểu về truyền thống tinh thần là hiểu về cách thức tư duy của dân tộc. Nỗ lực thay đổi như một sự tẩy não, tạo lập một nếp tư duy chưa từng có cho người Việt là điều chắc chắn không thể. Vậy chúng ta có thể làm gì? Người hiểu biết sẽ chọn góc độ tích cực của truyền thống tinh thần và cải tiến cách biểu hiện nó cho hợp với thời đại. Chữ “nhẫn” cách đây 1000 năm, 100 năm chắc chắn khác với biểu hiện của chữ “nhẫn” ở thời hiện đại.

Khoa học công nghệ phát triển làm đời sống người dân được nâng cao, khả năng chống chọi với thiên tai cũng cao lên. Không nhất thiết chúng ta phải chịu đựng sự nghèo khổ và nói mãi về cái nghèo cái đói nữa. Nhưng chữ “nhẫn” này lại có giá trị trong đường lối phát triển kinh tế bền vững. Nhiều thập kỷ qua chúng ta đã lao theo lối làm ăn chộp giật, vì cái lợi trước mắt mà bỏ qua cái lợi lâu dài của cả dân tộc, thế nên chúng ta đã phải trả giá bằng một nền kinh tế ảo bắt chước phương Tây và Trung Quốc tràn ngập tham nhũng, hàng hóa kém chất lượng và nợ nần chồng chất.

Người ta nói rất nhiều về tôn trọng khác biệt, về tự do tư tưởng, về đa nguyên. Đó hoàn toàn là khái niệm vay mượn của phương Tây. Nhưng tất cả những điều đó có ý nghĩa gì nếu hậu quả của nó là xung đột nhiều hơn, chia rẽ sâu sắc hơn? Không phải tôi phủ nhận những lý tưởng mà phương Tây theo đuổi và đang cố áp dụng điều đó ở Việt Nam. Tôi chỉ muốn nói rằng bắt chước phương Tây “không phải lối”, áp dụng mô hình một cách cứng nhắc mà không “Việt hóa” thì sớm muộn gì cũng quay trở lại cái thời “loạn 12 sứ quân” với phiên bản hiện đại. Ở một xã hội bảo vệ quyền khác biệt, cổ vũ tự do tư tưởng, một xã hội đa nguyên, càng cần lắm chữ “nhẫn” để tạo được sự hòa hợp và bền vững cho nền chính trị.

Đó chỉ là mộ vài ví dụ về cách thức biểu hiện của chữ nhẫn ở thời hiện đại, để bàn sâu hơn chắc phải dựa vào các chuyên gia mới có thể phân tích được. Qua đó ta có thể thấy, truyền thống tinh thần cũng giống như truyền thống sinh tồn, gần như không thể thay thế. Truyền thống tinh thần là một dạng màng lọc, loại bỏ đi những yếu tố không thích hợp với dân tộc, giữ lại những gì tinh túy thật sự có giá trị. Bất cứ mô hình chính trị, kinh doanh, giáo dục, thậm chí là các tôn giáo khi vào đến Việt Nam, nếu biết khai thác những điểm tương thích, khả năng duy trì sự thành công chắc chắn sẽ lâu dài hơn nhiều mô hình tổ chức khác.

Một cảnh trong phim

Một cảnh trong phim “Mùa hè chiều thẳng đứng” – Đạo diễn Trần Anh Hùng

Một số biểu tượng truyền thống tinh thần dân tộc cần bảo tồn

Phong tục cúng bánh chưng bánh dầy

Đây là một phong tục mang tính biểu tượng cao. Tại sao nhờ việc sáng tạo ra bánh chưng bánh dầy, Lang Liêu lại được thừa kế ngôi vua? Dù Lang Liêu có thể là truyền thuyết, vua Hùng có thể không có thật, nhưng không thể phủ nhận, cặp biểu tượng này mang màu sắc triết lý cao, thể hiện tầm tư tưởng của người sáng tạo.

Bánh chưng hình vuông, gói bằng lá dong xanh, vỏ bằng nếp, nhân bằng đậu xanh và thịt lợn. Đó là biểu tượng cho đất. Màu xanh là biểu hiện sự sinh sôi nảy nở của đất. Gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn là đại diện cho các loại thực vật, động vật. Tất cả được nén chặt thành hình vuông dẹt. Tại sao đất lại hình vuông? Đất hiểu theo nghĩa rộng hơn, chính là không gian. Người Việt Cổ đã nhận thức các mặt phẳng của không gian tạo thành các góc vuông 90 độ, bởi thế, đất có mang hình vuông. Đến cái lạt buộc bánh chưng cũng phần nào thể hiện cho chữ “nhẫn” của người Việt. Lạt làm từ cây giang, một cây mọc thẳng, cùng họ nhà tre, nhưng khi tước nhỏ ra lại trở thành một loại dây mềm dẻo và chắc chắn. Ấy vậy mà tục ngữ có câu “lạt mềm buộc chặt”.

Bánh dầy màu trắng và có hình tròn, tượng trưng cho trời. Trời đại diện cho thời gian. Người phương Đông cổ xưa quan niệm thời gian là luân hồi, chuyển động thời gian là một vòng tròn lặp đi lặp lại. Đến thời hiện đại, lý thuyết về không thời gian cong và thuyết tương đối của Einstein đã chứng minh được rằng nhận thức về thời gian của người phương Đông là đúng. Tại sao vòng trời lại có màu trắng? Màu trắng là màu của sự tinh khiết, màu nguyên bản của vạn vật, màu của tổng thể. Và bạn biết không, các nhà khoa học hiện đại đã làm một thí nghiệm, họ cho các ánh sáng nhiều màu hòa với nhau, kết quả là tạo ra ánh sáng trắng

Người Việt hiện đại không còn thắp hương bánh dầy, vì cho rằng không cần thiết, bánh dầy không có gì hấp dẫn. Họ quên mất rằng họ không cúng để họ ăn, họ cúng tế một biểu tượng. Trời phải đi với đất và con người ở giữa là trung gian tạo nên sự hòa hợp này. Chỉ cúng bánh chưng là biểu hiện của chủ nghĩa vật chất lên ngôi, một sự thái quá, làm mất đi cái thế “hòa” mà tổ tiên vẫn tạo dựng.

Phong tục thờ cúng gia tiên (những người đã khuất trong gia đình)

Chúng ta thờ rất nhiều: thờ Chúa, thờ Phật, thờ Thánh, thờ Qủy, thờ cả cái gốc cây có nhiều sự tích kỳ dị. Nhưng thờ gì thì thờ, kể cả tôn thờ chính bản thân mình, thì vẫn nên thờ gia tiên. Tại sao vậy? Đây có phải là một hình thức mê tín dị đoan? Nhiều người theo chủ nghĩa duy vật sẽ cho rằng chẳng có ích lợi gì, làm gì có linh hồn, đây chỉ là một thói quen tốn kém cần phải thay thế. Họ nghĩ thế cũng được, tôi vẫn nói rằng chúng ta nên giữ phong tục này.

Với người duy vật, tôi chỉ có thể nói ở khía cạnh đạo đức, thờ cúng gia tiên là một nghĩa cử  “uống nước nhớ nguồn”. Thờ cúng gia tiên nhắc nhở chúng ta về nguồn gốc của chúng ta. Nguồn gốc tạo cho chúng ta niềm tin để có thể gắn kết gia đình, dòng tộc, thành một khối vững chắc để tồn tại trong xã hội. Nếu không có phong tục này, nền tảng gia đình sẽ lung lay, và đám trẻ không ngần ngại gì mà không tống bố mẹ chúng vào trại dưỡng lão để làm nốt trách nhiệm.

Với người duy tâm có lẽ không cần phải bàn về điều này nhiều. Tôi sẽ không nói về quan niệm phù hộ độ trì nữa, điều này ai cũng biết rồi. Tôi sẽ nói ở khía cạnh năng lượng. Sự tưởng nhớ của con cháu với gia tiên làm tăng năng lượng linh hồn của người đã khuất trong dòng tộc. Khi phần âm của một dòng tộc có sức mạnh và mức độ cao trong tầng bậc năng lượng, nguyên lý cộng hưởng nghiệp khiến cho con cháu cũng được hưởng một phần phúc đức lớn của cha ông.

Trong các nghi lễ thờ cúng gia tiên, đòi hỏi sự tuần tự và kiên nhẫn. Ngay trong việc chuẩn bị nghi lễ và thực hiện nghi lễ chỉn chu, với tấm lòng thành kính, ngay tại đó, chúng ta sẽ hiểu được sâu sắc chữ “nhẫn” và chữ “hòa”. Chữ “nhẫn” hóa ra bẩn chất là sự khiêm tốn, biết vì mình mà cũng biết vì người. Chữ “hòa” hóa ra là nhận thức rõ ràng rằng vạn vật trong vũ trụ, mọi nhân tố trong xã hội đều có sự liên kết với nhau, nhìn ra sự liên kết ấy, cái “hòa” sẽ tự hình thành. Đây có thể là điều lý thuyết suông, nhưng các bạn hãy thử trải nghiệm tất cả các cảm giác này khi đứng trước bàn thờ gia tiên và tự tay thực hiện mọi nghi lễ, bạn sẽ biết được rằng điều tôi nói không phải là truyện kỳ ảo.

Nguyễn Thúy Vy
Xem chi tiết
Lê Phương Mai
Xem chi tiết
ʟɪʟɪ
21 tháng 4 2021 lúc 14:22

Chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt trở thành chữ Quốc ngữ của nước ta cho đến ngày nay vì:

+ Đây là loại chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ phổ biến và là công cụ thông tin rất thuận tiện.

+ Chữ quốc ngữ có vai trò quan trọng góp phần đắc lực vào việc truyền bá khoa học, phát triển văn hóa trong các thế kỉ sau, đặc biệt trong văn học viết.

Nhận xét

Ở thế kỉ 17 chữ Quốc ngữ theo mẫu tự latinh được sáng tạo. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử chữ Quốc ngữ vẫn được sử dụng trên đất nước ta ngày nay thể hiện:

+,Chữ Quốc ngữ là ngôn ngữ chính của quốc gia, nó đc dùng trong hành chính , ngoại giao. Là công cụ bảo tồn và phát triển đất nước.

+, Là cơ sở để tiếng việt phát triển về mặt: từ vựng, ngữ pháp và âm⇒ tạo sự thống nhất dân tộc Việt Nam, cho dẫu dân tộc Việt Nam có nhiều dân tộc thiểu số và nhiều phương ngữ.

+, Chữ Quốc ngữ là cơ sở phát triển nền quốc học Việt Nam lên 1 tầng cao mới.

Chữ cái La –tinh ghi âm tiếng Việt trở thành chữ Quốc ngữ của nước ta cho đến nay vì:

Đây là loại chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ phổ biến và là công cụ thông tin rất thuận tiện.Chữ quốc ngữ có vai trò quan trọng góp phần đắc lực vào việc truyền bá khoa học, phát triển văn hóa trong các thế kỉ sau, đặc biệt trong văn học viết.  

 .Để giữ gìn sự trong sáng của chữ Quốc Ngữ là học sinh em cần phải làm gì ?

- Sự trong sáng của tiếng Việt không cho phép sử dụng tuỳ tiện, không cần thiết của các yếu tố ngôn ngữ khác. .

- Tiếng Việt vay mượn tiếng Hán (chính trị, cách mạng,...), vay mượn từ tiếng Pháp (oxi, cacbon, logíc, mô-đun...), từ tiếng Anh (sốc, chát,...), nhưng không chấp nhận các yếu tố lai căng, pha tạp, những yếu tố này sẽ khiến người nghe không hiểu hoặc khó hiểu được nội dung giao tiếp.

– Sự trong sáng của tiếng Việt còn được biểu hiện ở tính văn hoá, lịch sự của lời nói.
- Trong ngôn ngữ viết, nếu lạm dụng quá nhiều tiếng lóng, tiếng địa phương, từ ngữ thô tục,... thì nguy cơ đánh mất sự trong sáng của tiếng Việt sẽ là rất cao.
- Trong ngôn ngữ nói, ngữ điệu giao tiếp đóng vai trò vô cùng quan trọng. Sự trong sáng của tiếng Việt thể hiện rất rõ ở phương viện này. Sắc thái tu từ của ngữ điệu nếu được sử dụng không đúng, hoặc bị lạm dụng quá mức cần thiết thì cũng sẽ dẫn đến việc đánh mất đi sự trong sáng của tiếng Việt.