Hãy chỉ rõ những đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết thể hiện ở truyện Thánh Gióng.
Hãy chỉ rõ những đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết thể hiện ở truyện Thánh Gióng.
___giúp mk ____ mai nộp rồi____-
- Truyền thuyết luôn gắn bó với sự thật, với lịch sử, phản ánh những sự kiện trọng đại của dân tộc, nhiều nhân vật trong truyền thuyết cũng là nhân vật trong chính sử, trong sự nghiệp chung được nhiều người thừa nhận, noi theo.
- Mặc dù vậy, truyền thuyết vẫn là một thể tài văn học dân gian chứ không phải là một thể tài sử học. Trong truyền thuyết có những sự kiện lịch sử nhưng chúng không phải những sự kiện lịch sử đích thực mà chỉ là “những ánh hào quang, những tia khúc xạ” của lịch sử. TT từ lịch sử mà ra nhưng TT lại không phải là lịch sử.
Trước hết, truyền thuyết không chú ý đến việc đảm bảo tính đầy đủ và tuần tự theo thời gian của các sự kiện lịch sử. Không phải bất cứ nhân vật và sự kiện lịch sử nào cũng trở thành trung tâm phản ánh của truyền thuyết. Truyền thuyết có thể ghi lại những sự kiện lịch sử của thời khuyết sử hoặc chọn lọc những sự kiện theo quan niệm của nhân dân.
Ngược lại, một số nhân vật lịch sử không được sử sách ghi lại nhiều như nhân vật Cao Lỗ nhưng trong truyền thuyết ông có một vị trí quan trọng, một vị thần trong tín ngưỡng dân gian.Trong Việt điện u linh, Cao Lỗ được phong là Quả nghị cương chính vương, trong Giao chỉ ký, Cao Lỗ còn được gọi là Đô Lỗ hay Thạch Thần (vị thần đá - được tôn xưng từ tín ngưỡng thờ đá của nhân dân). Sáu đình xã Cao Đức và đến Đại Than (huyện Gia Lương – Hà Bắc) lập đền thờ ông…
- Truyền thuyết cũng không đảm bảo tính chính xác tuyệt đối về mặt thời gian, không gian, diễn biến, nguyên nhân và kết quả của các sự kiện lịch sử.
- Và truyền thuyết thường chú ý nhiều hơn đến những nhân vật có xuất thân nông dân hoặc gần dân. Truyền thuyết dân gian thường kể về người anh hùng trong mối quan hệ với dân, trong đó nhân dân vừa là người tham gia, vừa là chỗ dựa tin cậy để người anh hùng làm nên chiến thắng.
Như vậy, người ta không thể tìm thấy trong truyền thuyết những sự kiện lịch sử chính xác đích thực, nhưng lại có thể tìm thấy những thứ mà không có một tài liệu liạh sử nào có thể ghi lại được. Đó chính là quan điểm đánh giá lịch sử của nhân dân, là tâm tư, tình cảm, mong ước thầm kín của nhân dân trong mỗi triều đại lịch sử qua cách nhân dân “kể” lại các sự kiện. Đó còn là tinh thần kiên cường tự chủ, là niềm tự hào, niềm tin vào khả năng và sức mạnh bản thân của nhân dân, nó giống như một dòng chảy âm thầm nhưng mỗi ngày một mạnh mẽ mà nhân dân đã khéo léo thể hiện và nuôi dưỡng nó qua việc chủ động đánh giá lịch sử, qua việc khẳng định người anh hùng chỉ có thể làm lên nghiệp lớn nếu được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân…Tính chính xác lịch sử trong truyền thuyết, như nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch khẳng định, không phải hoàn toàn ở sự phản ánh về thời gian, không gian, nhân danh, sự biến, trình tự biên niên của sự kiện mà chủ yếu là ở bản chất, ở cái cốt lõi của lịch sử. Đó là một thứ lịch sử văn hoá - tinh thần của nhân dân. Nó không giống như chính sử, nhưng lại luôn được dân gian thừa nhận đó chính là lịch sử đáng tin cậy (tín sử) của mình.
Truyền thuyết thể hiện tất cả những điều đó nhờ yếu tố tưởng tượng, hư cấu. Yếu tố tưởng tượng, hư cấu trong truyền thuyết làm cho hành trạng của mỗi nhân vật anh hùng trở nên kỳ vĩ, nhân vật được sánh ngang tầm thần thánh, tạo nên một cốt truyện truyền cảm, sinh động, vừa chân thực vừa hấp dẫn, giúp cho TT trở thành một tác phẩm nghệ thuật thực thụ chứ không phải là một tài liệu sử học.
Truyền thuyết và nghi lễ, lễ hộiPhân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội trong đoạn phim trên?
- Mối quan hệ truyền thuyết và lễ hội là quan hệ có tính chất qua lại, bổ sung lẫn nhau: Truyền thuyết là cốt lõi của lễ hội, khiến cho lễ hội có nội dung thiêng liêng, còn lễ hội làm cho việc diễn xướng truyền thuyết được sinh động, thu hút sự gắn bó và cộng cảm của tập thể.
- Đối với nhân dân, lễ hội là hình thức kể chuyện, là sự bảo lưu các cốt truyện, bởi vì:
Nhân dân hầu như không biết chữ, không thể đọc được các bản kể truyền thuyết được các nhà Nho sưu tầm.Các lễ hội kể lại thường niên nội dung các truyền thuyết làm nhân dân dễ nhớ, dễ thuộc.Hình tượng người anh hùng, cuộc đời và những hành trang của các anh sẽ tác động trực tiếp, trực quan đến đông đảo nhân dân nhờ môi trường lễ hội. Ở đó, nhân dân không chỉ là người xem hội thụ động mà còn là người chủ động đóng vai, nhập vai khi được tham gia làm những nhân vật và diễn lại các sự kiện của truyền thuyết. Điều này đã góp phần nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và tình cảm cộng đồng của nhân dân.Lễ hội gắn với nghi lễ nên tính trang nghiêm (không gian và thời gian thiêng) càng thể hiện được bản chất của truyền thuyết nhằm tôn vinh các anh hùng.- Đối với lễ hội, truyền thuyết đóng vai trò là xương sống, là cốt truyện dẫn dắt tiến trình lễ hội, là sự minh giải cho lễ hội: mở hội vào ngày nào, sau bao nhiêu năm lại mở lại một lần, tại sao kéo dài từng ấy ngày, rước từ đâu đến đâu, lễ vật dâng cúng gồm những gì, phải kiêng kị những gì…
- Các lễ hội đều có nguồn gốc là các nghi lễ nông nghiệp, phát triển thành hội làng. Sau đó thì lớp ý nghĩa chống ngoại xâm, ca ngợi các vị anh hùng được lồng ghép vào và chiếm vị trí nổi bật. Đây cũng là một sự gần gũi giữa nội dung của lễ hội với nội dung của truyền thuyết. Thực chất trong các truyền thuyết anh hùng, hai mặt sản xuất và chiến đấu được kết hợp rất nhịp nhàng. Trong truyền thuyết Thánh Gióng bên cạnh việc đánh giặc cũng còn có chuyện hái cà, đập đất, chăn trâu…Hai Bà Trưng sau khi chết còn hiển linh giúp dân chống hạn. Cao Lỗ khi hiển linh với Cao Biền có nói rằng: phàm việc dẹp giặc và việc mùa màng ta đều được chủ trương cả- Lĩnh nam chích quái. Nguyên nhân chủ yếu là do trong một thời gian dài, hai mặt làm ăn và đánh giặc đã chiếm vị trí quan trọng duy nhất trong đời sống dân tộc ta, mặt khác cũng do cả hai việc lớn này đều do một người gánh vác – người nông dân Việt Nam.
Tóm lại: Truyền thuyết và lễ hội đều là sản phẩm hoạt động tinh thần của nhân dân, do dân sáng tạo, bồi đắp, lưu giữ và thể hiện. Cả hai đều có một bộ phận rất quan trọng tập trung ca ngợi những người có công với dân, với nước, đều hướng tới mục đích khơi dậy lòng tự hào dân tộc và nhắc nhở con cháu đừng phụ công ơn của các bậc tiền bối.
Chúng khác nhau ở chỗ: Truyền thuyết là một thể loại văn hoá dân gian. Nó khắc hoạ người anh hùng bằng ngôn từ, bằng hình tượng, bằng các biện pháp nghệ thuật theo đặc trưng của thể loại.
Trong lúc đó hội lễ là một sinh hoạt văn hoá dân gian tổng hợp, cần có môi trường diễn xướng, có cộng đồng tham dự. Hội lễ ca ngợi người anh hùng bằng tín ngưỡng, bằng nghi thức lễ bái, bằng phong tục, bằng sự kiêng kị, bằng vật phẩm dâng cúng, bằng việc diễn lại sự tích, hành trạng, bằng trò chơi dân gian, bằng đám rước.v.v..[1]
[1] Lê Văn Kỳ – Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng – NXB KHXH – HN 1996.
Truyền thuyết có tính dân tộc và tính địa phương sâu sắc- Truyền thuyết bao giờ cũng phải gắn với không gian-thời gian cố định, không- thời gian lịch sử cụ thể. Một truyện kể dân gian nếu không gắn với không- thời gian cố định thì không thể là truyền thuyết được. Một nhân vật truyền thuyết nổi tiếng được rất nhiều người biết đến nhưng hành trạng, sự nghiệp của nhân vật đó bao giờ cũng gắn với những địa phương cụ thể, những nơi mà nhân vật đã đi qua. Do đó, vẫn luôn tồn tại những truyền thuyết của từng địa phương mang tính địa phương rõ nét. Mỗi vị anh hùng, mỗi nhân vật đều gắn với con người và một vùng đất cụ thể. Hơn nữa, nhân dân lại có xu hướng, nhu cầu “kéo” các vị anh hùng lại gần cuộc sống của mình, gắn với địa phương mình. Trong quá trình lưu truyền, truyền thuyết đi đến mỗi địa phương luôn được kết nạp những yếu tố mới sao cho phù hợp với đặc điểm, phong tục tập quán của từng địa phương. Đó chính là hình thức địa phương hoá các truyền thuyết dân gian.
Ví dụ :
Truyền thuyết về Xuân Nương công chúa (nữ tướng của Hai Bà Trưng) trải qua các vùng Hương Nha, Hương Nộn, Nam Cường, Man Châu… Mỗi địa phương lưu giữ một sự tích về nàng. Riêng vùng Nam Cường (Tam Nông, Phú Thọ) là nơi Xuân Nương đã bị đoạ thai trên một tảng đá bằng nửa chiếc chiếu, tục truyền là đá cấm, vẫn để thờ trong miếu. Trước miếu có hai mộ am, có sách ghi chép: một am gọi là “hà sa hào tích” (hà sa là rau bà đẻ).
- Còn có một xu hướng ngược lại nữa cũng song song diễn ra: xu hướng toàn quốc hoá các nhân vật lịch sử ở một địa phương cụ thể nào đó. Đây là cách để người dân địa phương gắn bó mình với toàn dân tộc, nó thể hiện nhu cầu muốn gắn bó làng xã với quốc gia, với triều đình
Ví dụ: Dóng, sau khi thắng giặc Ân trở về, trên đường về (từ Bắc Ninh – những vùng Quế dương, Võ giàng, Thuận Thành, Tiên du, Yên Phong …nơi in dấu những vết chân ngựa và gốc tre ngà bị nhổ- về Sóc Sơn) có ngồi lại bên Hồ Tây, mở gói cơm cà ra ăn. Những hạt cà rơi xuống mọc lên một giống cà Xuân Đỉnh nhỏ, giòn, ngon. Dóng đến làng Kẻ Khốn ngồi nghỉ uống nước, thấy nước mát liền đổi tên làng là làng Kẻ Mát…
- Như vậy, cuộc đồi người anh hùng bao giờ cũng gắn với các vùng địa danh: đất sinh ra, đất chết đi hay hoá thân, và vùng đất đi qua để lại dấu vết về hành trạng, sự kiện, chiến công…
- Và như vậy, truyền thuyết trong quá trình lưu truyền được biến đổi cả về lượng và chất. Sự gắn kết nhân vật truyền thuyết với địa phương, với phong vật đã dần dần trở thành một tâm thức phổ biến, để dẫn đến hình thành một quy luật tâm lý phổ biến trong đời sống nhân dân: thấy vật nhớ đến người, nghĩ đến người nhớ vật.
- Hiện tượng này cũng phù hợp với lễ hội, phong tục dân gian. Đó là ngoài các lễ hội mang tính chất toàn quốc hay của một vùng rộng lớn (Hội đền Hùng, Hội Côn Sơn Kiếp Bạc…) thì hầu hết các lễ hội đều là các hội làng (hoặc liên làng).
Về bộ phận văn học dân gian, có các trọng tâm kiến thức:
– Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian. – Hệ thống thể loại văn học dân gian Việt Nam. – Những giá trị của văn học dân gian Việt Nam. Để nắm được những trọng tâm kiến thức nói trên, có thể ôn tập theo các gợi ý sau: a) Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian. Văn học dân gian bao gồm những thể loại nào? Chỉ ra những đặc trưng chủ yếu nhất của từng thể loại. b) Chọn phân tích một số tác phẩm (hoặc trích đoạn tác phẩm) văn học dân gian đã học (hoặc đã đọc) để làm nổi bật đặc điểm nội dung và nghệ thuật của sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện thơ, truyện cười, ca dao, tục ngữ. c) Kể lại một số truyện dân gian, đọc thuộc một số câu ca dao, tục ngữ mà anh (chị) thích.a, Những đặc điểm cơ bản của nền văn học dân gian. Các thể loại, đặc trưng chủ yếu của từng thể loại
- Các thể loại chủ yếu của văn học dân gian là: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, ca dao, tục ngữ...
+ Truyền thuyết thuộc thể loại văn học dân gian nhằm lí giải các hiện tượng tự nhiên, lịch sử, xã hội. Sử dụng các yếu tố hoang đường kì ảo để kể chuyện.
+ Truyện cổ tích: kể về các kiểu nhân vật thông minh, ngốc nghếch, bất hạnh... nhằm thể hiện ước mơ cái thiện thắng ác, sự công bằng xã hội... Truyện cũng sử dụng các yếu tố hoang đường, kì ảo.
...
b, Phân tích truyện cổ tích Sọ Dừa:
- Kiểu nhân vật bất hạnh
- Thể hiện ước mơ cái thiện thắng cái ác, ước mơ về hạnh phúc
- Các yếu tố hoang đường kì ảo:
+ Bà mẹ uống nước trong một chiếc sọ dừa về mang thai
+ Sinh ra Sọ Dừa tròn lông lốc, không tay chân
+ So Dừa thoát khỏi lốt trở thành chàng trai khôi ngô tuấn tú
+ Vợ Sọ Dừa bị cá kình nuốt vào bụng, tự mổ bụng cá, trôi dạt vào đảo và sống sót.
c, Một số tác phẩm văn học dân gian đã học: truyện truyền thuyết Con rồng cháu tiên, Thánh Gióng, Sơn Tinh Thủy Tinh, truyện cổ tích Tấm Cám, Đẽo cày giữa đường, Sọ Dừa, truyện cười Treo biển, lợn cưới áo mới...
Hãy nêu những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo em, đặc trưng nào được thể hiện rõ nhất trong thực tiễn cuộc sống hiện nay ở nước ta?
- Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là:
+ Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
+ Do nhân dân làm chủ;
+ Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
+ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
+ Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
- Đặc trưng được thể hiện rõ nhất trong thực tiễn hiện nay ở nước ta là “nhà nước do nhân dân làm chủ, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”
b. chỉ ra hai đặc điểm cơ bản của truyền thuyết trong văn bản “thánh gióng”, “sơn tinh, thủy tinh”.
tham khaor
Thứ nhất. tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói đòi đi đánh giặc. Chi tiết này chứng tỏ nhân dân ta luôn có ý thức chống giặc ngoại xâm. Khi có giặc, từ người già đến trẻ con đều sẵn sàng đánh giặc cứu nước. Đây là một chi tiết thần kì: chưa hề biết nói, biết cười, ngay lần nói đầu tiên, chú bé đã nói rất rõ ràng về một việc hệ trọng của đất nước. Thứ hai, Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để đánh giặc. Gióng không đòi đồ chơi như những đứa trẻ khác mà đòi vũ khí, những vật dụng để đánh giặc. Đây cũng là một chi tiết thần kì. Gióng sinh ra đã là một anh hùng và điều quan tâm duy nhất của vị anh hùng đó là đánh giặc. Thứ ba, bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé. Gióng là đứa con của nhân dân, được nhân dân nuôi nấng, dạy dỗ. Sức mạnh của Gióng là sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của tinh thần đồng sức, đồng lòng. Thứ tư, Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ. Đây cũng là chi tiết thể hiện sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của dân tộc. Khi hoà bình là những người lao động rất bình thường, nhưng khi chiến tranh xảy ra, sự đoàn kết đã hoá thành sức mạnh bão tố, phi thường, vùi chôn quân giặc. Thứ năm, Roisắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh giặc. Gậy sắt là vũ khí của người anh hùng. Nhưng khi cần thì cả cỏ cây cũng biến thành vũ khí.. Thứ sáu, Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng lên trời. Gióng cũng như nhân dân hay chính là nhân dân, đánh giặc vì lòng yêu nước, căm thù giặc, sẵn sàng hi sinh thân mình mà không đòi hỏi được khen thưởng hay ban cho danh lợi.
Tại sao xếp truyện Thánh Gióng vào thể loại truyền thuyết?
A. Câu chuyện được kể, lưu truyền từ đời này qua đời khác
B. Đó là câu chuyện dân gian về các anh hùng thời xa xưa
C. Đó là câu chuyện liên quan tới nhân vật lịch sử
D. Câu chuyện tưởng tượng, có nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo liên quan tới sự thật lịch sử.
Đáp án: D
Truyện truyền thuyết thuộc thể loại truyện có yếu tố hoang đường, kỉ ảo dựa trên sự thật lịch sử
Hãy nêu những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo em, đặc trưng nào được thể hiện rõ nhất trong thực tiễn cuộc sống hiện nay ở nước ta?
- Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là:
+ Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
+ Do nhân dân làm chủ;
+ Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
+ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
+ Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
+ Có quan hệ hữu ngị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
- Đặc trưng được thể hiện rõ nhất trong thực tiễn hiện nay ở nước ta là “nhà nước do nhân dân làm chủ, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”
Trong các truyện sau, truyện nào thuộc thể loại truyền thuyết?
(Chỉ được chọn 1 đáp án)
A.Sự tích Hồ Gươm, Thánh Gióng, Em bé thông minh.
B.Sự tích Hồ Gươm, Thánh Gióng, Sơn Tinh Thủy Tinh.
C.Sự tích Hồ Gươm, Em bé thông minh, Sơn Tinh Thủy Tinh.
Câu 1: Văn bản Thánh gióng thuộc thể loại gì?
Theo em, Truyền thuyết là gì?
Câu 2: Để phân tích một tác phẩm truyền thuyết, em cần phân tích những yếu tố chính nào? Em hãy dựa vào Sách giáo khoa trang 18 và cho cô biết: Nhân vật, cốt truyện, yếu tố kì ảo là gì?
Câu 1: Văn bản Thánh gióng thuộc thể loại gì?
- Văn bản Thánh Gióng thuộc thể loại truyền thuyết.
Theo em, Truyền thuyết là gì?
- Truyền thuyết là những câu chuyện được truyền miệng trong dân gian giải thích các phong tục, tập quán hoặc kể về các nhân vật lịch sử.
Câu 2: Để phân tích một tác phẩm truyền thuyết, em cần phân tích những yếu tố chính nào?
- Đề tài, chủ đề, nội dung chính của các truyền thuyết thường bắt nguồn từ những sự kiện, câu chuyện có trong lịch sử và mang ý nghĩa to lớn, quan trọng
- Sử dụng nhiều các yếu tố tưởng tượng, kì ảo, hư cấu.
- Các nhân vật trong truyền thuyết thường:
Được xây dựng rất đơn giản, không miêu tả quá cầu kỳ về tiểu sử hay ngoại hình.
Được hòa trộn giữa những tính chất, đặc điểm của con người bình thường với những đặc điểm mang tính phi thường, thần thánh,
kì ảo.
- Thường rất đơn giản, không có nhiều cao trào, biến động, các sự kiện, tình tiết khá ít ỏi.
Em hãy dựa vào Sách giáo khoa trang 18 và cho cô biết: Nhân vật, cốt truyện, yếu tố kì ảo là gì?
- Nhân vật: Đối tượng có hình dáng, hành động, ngôn ngữ, cảm xúc,... trong tác phẩm, gồm: con người, thần tiên, ma quỷ, loài vật, đồ vật,...
- Cốt truyện: Các sự kiện chính, sắp xếp theo thứ tự trật tự nhất định: Mở bài, diễn biến, kết thúc.
- Yếu tố kì ảo: Cái khác, cái lạ trong các tác phẩm văn học.
~ Hok T ~
Văn bản Thánh Gióng thuộc thể loại truyền thuyết, đặc điểm của thể loại này như sau:
Bài văn thuộc thể loại truyện dân gian, kể về những nhân vật và sự kiện lịch sử thời quá khứLà tác phẩm nghệ thuật truyền miệng nên thường có nhiều yếu tố tưởng tượng, kỳ ảoVăn bản thường thể hiện thái độ, quan điểm cũng như cách đánh giá của nhân dân đối với những nhân vật và sự kiện lịch sử được kểờm,chị đỗ xuân anh ơi,cjo em hỏi một chút ạ:em nhớ việt nam chia thành 3 miền:bắc,trung,nam cơ mà chị