trình bày về tổ chức bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương dưới thời lý.nêu nhận xét
trình bày về tổ chức bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương dưới thời Lý
a. Chính quyền trung ương. Trong bộ máy chính quyền trung ương thời Lý – Trần, Hoàng đế là người nắm giữ toàn bộ vương quyền và thần quyền. Tuy nhiên, so với các triều đại trước, mức độ tập trung quyền lực của vua chưa cao tới mức chuyên chế. Mà quyền hành pháp được chuyển giao rộng rãi cho các chức vụ trung gian trong nhà nước, thường là các chức vị dưới vua như Tể tướng, Thừa tướng,…Riêng thời Trần, trên vua còn có Thái thượng hoàng – tức là nhà nước được xây dựng theo thể chế lưỡng đầu, thừa nhận sự tồn tại và phân chia quyền lực giữa hai vua, vừa nhằm củng cố quyền lực nhà nước vừa đảm bảo sự ổn định ngay trong nội bộ vương triều.Theo cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí”, bộ máy nhà nước triều Lý được xây dựng với đẳng cấp phân minh, biên chế chặt chẽ. Biểu hiện ở các chức quan cao cấp trong triều đình chia làm hai ngạch: ngạch văn và ngạch võ. Các đại thần ở ngạch văn bao gồm các chức Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo) và Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo) giữ trọng trách về hành pháp. Dưới hàng quan văn còn có chức Thượng thư – đứng đầu các bộ, các tả như Hữu tham tri, Hữu giám nghị…Ngạch võ – đứng đầu là Tể tướng nắm giữ quyền binh, dưới Tể tướng còn có các chức vị như Thái úy, Thiếu úy và một số chức quan khác. Dưới hàng quan võ còn có Đô thống, Nguyên súy, Tổng quản…Dưới thời Trần, chế độ trung ương tập quyền không những được khôi phục mà còn được tăng cường về mọi mặt. Quyền lực nhà nước được được phân chia rõ ràng thông qua các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp như Thẩm ti viện, Thẩm hình viện, Tam ti viện… Bộ máy chính quyền thời Lý – Trần được xây dựng trên hình thức chính thể quân chủ quý tộc. Dựa trên nguyên tắc “liên kết dòng họ”, hoàng thân quốc thích là hậu thuẫn chính trị hùng mạnh cho quyền lực của nhà vua. Biểu hiện của nó là hầu hết các trọng trách ở bộ máy trung ương đều do tầng lớp quý tộc nắm giữ. Các hoàng tử được phong vương và được cử đi trấn trị ở các nơi trọng yếu. Quan lại các cấp phần lớn được tuyển lựa với hai phương thức chủ yếu là nhiệm cử và tuyển cử. Thể hiện ở việc quan lại trong bộ máy nhà nước phần lớn xuất thân từ tầng lớp con em quý tộc. Điều này còn được thể chế trong pháp luật dưới thời Trần Thái Tông: “Người có quan tước, con cháu được 1 thừa ấn mới được vào làm quan; người giàu khỏe mạnh mà không có quan tước thì xung quân, đời đời làm lính”. Ngoài ra còn được thể hiện ở một số chính sách như vương hầu, tôn thất đều được trọng dụng và khuyến khích hôn nhân nội tộc vừa để củng cố sự vững chắc của vương triều vừa nhằm đảm bảo tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vững. Tóm lại, thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ. Bởi vậy nhà Trần nắm khá chắc toàn bộ công việc chủ chốt trong triều, quyền lực tập trung trong tay nhà nước trung ương; chế độ quân chủ trung ương tập quyền được củng cố thêm một bước; do đó nhà nước thời Lý - Trần là nhà nước quân chủ quý tộc. Nhà nước quân chủ quý tộc Lý – Trần là mô hình nhà nước được xây dựng trên cơ sở cao nhất là nguyên tắc “liên kết dòng họ”. Cách sử dụng, bổ nhiệm quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét tính đẳng cấp sâu sắc, nhất là dưới thời Trần. Nguyên tắc “tôn quân quyền” chỉ được thể hiện nhưng không đậm nét bằng nguyên tắc “liên kết dòng họ” trong tổ chức bộ máy chính quyền trung ương.b. chính quyền địa phương Việc phân cấp hành chính và tổ chức chính quyền địa phương các cấp trong tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý – Trần có nhiều lần được sửa đổi và thay thế. Dưới thời Lý, chính quyền địa phương bao gồm 3 cấp: “lộ – trại” (đứng đầu là Thông phán – Chủ trại); “phủ – châu” (Tri phủ – Tri châu) và hương, xã, sách. Nhìn chung dưới thời Lý, các cấp cơ sở chưa thực sự được quan tâm, đốc thúc. Đến thời Trần, sau hai cuộc cải cách của vua Trần Thái Tông (1242) và vua Trần Thuận Tông (1397) về cơ bản, bộ máy chính quyền địa phương đã có một số thay đổi, tách nhập giữa các cấp. Chính quyền địa phương bao gồm 5 cấp: “lộ” (đứng đầu là An phủ chánh sứ), “phủ” (Trấn phủ sứ), “châu” (Thông phán), “huyện” (Lệnh úy), “xã” (Xã chính). Điều đó phản ánh nhà nước thời này đã đặc biệt quan tâm, trực tiếp với tay quản lý đến cấp cơ sở; một số chức vụ quan trọng trong chính quyền địa phương đều được vua giao cho các vương tôn quý tộc. Dưới thời Lý – Trần, lần đầu tiên có cấp hành chính huyện. Trong quá trình tổ chức xây dựng chính quyền địa phương thời Lý-Trần còn có một số điểm đáng chú ý sau:- Ở miền núi, các tù trưởng có thế lực rất lớn, thực sự nắm quyền quản lý cư dân thuộc tộc mình, các vua Lý-Trần thường gả công chúa và phong chức tước cho các tù trưởng qua đó biến các tù trưởng thành quan chức nhà nước nhằm cũng cố nhà nước trung ương tập quyền.- Ở cấp lộ còn có các chức quan trông coi về đê điều, đồn điền của nhà nước: hà đê chánh sứ và hà đê phó sứ, đồn điền chánh sứ và đồn điền phó sứ.- Triều đình đã bổ nhiệm quan chức đến cấp xã nhưng chắc chắn phải có một hình thức tổ chức quản lý truyền thống trong nội bộ làng, xã mà không thấy sử cũ ghi chép.Ở cấp 2 lộ còn có các chức quan trông coi về đê điều, đồn điền của nhà nước. Triều đình đã bổ nhiệm quan chức đến cấp xã… Từ thực tế trên cho phép đi đến một nhận định tổng quát ở thời Lý – Trần, quá trình xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước có nhiều biến động; tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương được hoàn thiện hơn…
+ Tổ chức bộ máy nhà nước
- Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt và biểu hành xây dựng chính quyền quân chủ bằng cách tổ chức bộ máy nhà nước.
- Trung ương: đứng đầu là vua, dưới vua có quan đại thần và hai ban quan văn, võ.
- Địa phương: cả nước chia thành 24 lộ, dưới lộ là phủ, dưới phủ là huyện, dưới huyện là hương, xã
sau khi Lý Thái Tổ lên ngôi đã ra Chiếu dời đô từ Hoa Lư về Đại La (1010) và đổi tên nước thành Đại Việt. Nhà Lý đã tổ chức lại chính quyền trung ương và địa phương :
- Ở trung ương : vua là người đứng đầu nhà nước, nắm giữ mọi quyền hành, theo chế độ cha truyền con nối. Giúp việc cho vua có các đại thần, quan văn, quan võ. Các chức vụ quan trọng này đều do nhà vua cử người thân cận nắm giữ.
- Ở địa phương : cả nước được chia thành 24 lộ, phủ do các tri phủ, tri châu đứng đầu ; giao cho các con cháu nhà vua hoặc đại thần cai quản. Dưới lộ, phủ là huyện, hương, xã.
-Tại sao Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại Loa ?
- Trình bày tổ chức bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương dưới thời Lý .
Câu 1: Trả lời:
Thứ nhất: Do Đại La là vùng đất có điều kiện kinh tế thuận lợi, màu mỡ, nằm vùng trung tâm, vùng đất chủ chốt quốc gia.
cho biết lý công uẩn lên ngôi vua trong hoàn cảnh nào. tại sao lý công uẩn quyết định dời đô từ hoa lư ra đại la
trình bày về tổ chức bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương dưới thời lý
Lý Công Uẩn lên ngôi trong hoàn cảnh là Lê Hoàn có nhiều con và ông đã trao ngôi cho con cả nhưng ít lâu sau con cả chết, sau đó ông ko truyền ngôi cho ai nữa và chết luôn. Các người con của ôn tranh giành quyền lực, ngai vàng. Một người con thắng, lên ngôi vua được 3 ngày rồi bị Lê Long Đĩnh sát hại. Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Vua suốt ngày chỉ ăn chơi sa đọa, hoang dâm vô độ rồi bị bệnh chết ( do quá dâm ). Triều thần chán ghét Tiền Lê nên cho Lý Công Uẩn - là người cực có tài lên làm vua
Lý Công Uẩn quyết định rời đô từ Hoa Lư ra Đại La vì Hoa lư có địa hình hiểm trở, xung quanh toàn núi non, rừng cây um tùm, chỉ thích hợp cho việc phòng ngự. Còn Đại La được thế rồng cuộn hổ ngồi, thế đất sáng sủa, phía trước có núi, phía sau có sông rất tiện lợi. Nhân dân không bị khổ vì thiên tai mà lại còn di chuyển dễ, là nơi thích hợp để phát triển kinh tế, khắp nơi màu mỡ là nơi thích hợp để ngự trị suốt đời
mk mún giúp bạn ý 2 lắm mà mk ko bít vẽ hình trong cái web này.
- Vào năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời. Triều thần chán ghét nhà Tiền Lê vì vua ăn chơi sa đọa, không quan tâm đến dân, Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi vua. Từ đó thì nhà Lý được thành lập.
+ Vì kinh đô Hoa Lư xa và hẻo lánh, trong khi đó, Đại La có nhiều ưu điểm hơn: Vị trí: Địa thế thuận lợi, là trung tâm của đất nước.
- Về việc tổ chức bộ máy chính quyền ở trung ương: Vua đứng đầu nhà nước, nắm giữ mọi quyền hành. Vua ở ngôi theo chế độ cha truyền con nối. Các chức vụ quan trọng, nhà vua đều cử những người thân cận nắm giữ. Giúp vua lo việc nước có các đại thần, các quan văn, võ.
+ Về việc tổ chức bộ máy chính quyền ở địa phương: Nhà Lý đã chia cả nước thành 24 lộ, phủ (Ở miền Bắc gọi là Châu), đặt ra các chức Tri Phủ, Tri Châu, giao cho con cháu nhà vua hoặc các đại thần cai quản. Dưới lộ, phủ là huyện, hương và xã .
* LƯU Ý: Bạn có thể vẽ theo sơ đồ nếu thầy/cô giáo yêu cầu nhé !
Em có nhận xét gì về bộ máy nhà nước thời Lê so với thời Trần?
A. Các tầng lớp quý tộc chia nhau nắm giữ chính quyền ở trung ương và địa phương
B. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, tổ chức nhà nước chặt chẽ hơn, tập quyền hơn
C. Vua đứng đầu triều đình và đặt ra các chức quan văn, võ giúp việc cho vua
D. Vua và các tướng lĩnh thân cận nắm giữ chính quyền ở trung ương và địa phương
Thời Lý - Trần bộ máy chính quyền được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương điều đó chính tỏ?
Chứng tỏ nước ta đang phát triển, tiến bộ lên từng ngày. Đời sống bà con nhân dân sẽ sống theo cách mới ít bị tệ nạn xã hội, dịch bệnh, áp bứt hơn khi áp dụng những luật nghiêm ngặt này
Chứng tỏ nước ta đang phát triển, tiến bộ lên từng ngày. Đời sống bà con nhân dân sẽ sống theo cách mới ít bị tệ nạn xã hội, dịch bệnh, áp bứt hơn khi áp dụng những luật nghiêm ngặt này
Thời Lý-Trần bộ máy chính quyền được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương chứng tỏ điều gì?
Tham khảo:
Chứng tỏ nước ta đang phát triển, tiến bộ lên từng ngày. Đời sống bà con nhân dân sẽ sống theo cách mới ít bị tệ nạn xã hội, dịch bệnh, áp bứt hơn khi áp dụng những luật nghiêm ngặt này
tk:
Chứng tỏ nước ta đang phát triển, tiến bộ lên từng ngày. Đời sống bà con nhân dân sẽ sống theo cách mới ít bị tệ nạn xã hội, dịch bệnh, áp bứt hơn khi áp dụng những luật nghiêm ngặt này
tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê Sơ và nêu nhận xét về tổ chức bộ máy nhà nước thời lê sơ
Nhận xét:
+ Bộ máy nhà nước từ vua Lê Thánh Tông trở về sau ⇒ tập trung quyền lực vào tay vua lớn hơn.
+ Phân chia rõ ràng, cụ thể.
+ Hoàn chỉnh, chặt chẽ, quy củ hơn
Nhận xét:
+ Bộ máy nhà nước từ vua Lê Thánh Tông trở về sau ⇒ tập trung quyền lực vào tay vua lớn hơn.
+ Phân chia rõ ràng, cụ thể.
+ Hoàn chỉnh, chặt chẽ, quy củ hơn
Vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước dưới thời NGô Quyền và thời Tiền Lê? từ đó nhận xét bộ máy chính quyền nhà Ngô
Nhận xét: Tổ chức nhà nước còn đơn giản
Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Tiền Lê
Bộ máy nhà nước thời Ngô còn đơn giản, những bước đầu thể hiện tinh thần độc lập tự chủ
Trình bày những cải cách của Minh Mạng đối với bộ máy chính quyền trung ương và địa phương.
Tham khảo:
Hệ thống cơ quan chủ chốt của triều đình gồm: Viện cơ mật, Nội các, Đô sát viện, Lục bộ, Lục khoa, Lục tự, các cơ quan chuyên môn. Bên cạnh đó là các chức quan đại thần.
Các cơ quan chuyên môn quan trọng trong triều đình tiếp tục được kiện toàn hoàn chỉnh về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức. Tiêu biểu như Hàn lâm viện (soạn thảo văn bản), Quốc Tử Giám (giảng dạy kinh sách, đào tạo nhân tài), Thái y viện (chăm sóc sức khoẻ, quản lí hoạt động y tế), Khâm thiên giảm (làm lịch, xem ngày giờ, báo giờ, quan sát và dự đoán các hiện tượng thiên văn, thời tiết)...
Thành lập các cơ quan mới như Nội các, Đô sát viện và Cơ mật viện.
Nội các thành lập năm 1829 trên cơ sở Văn thư phòng, có nhiệm vụ giúp vua khởi thảo văn bản hành chính, tiếp nhận và xử lí công văn, coi giữ ẩn tín, lưu trữ châu bản.
Đô sát viện thành lập năm 1832, có nhiệm vụ can gián nhà vua và giám sát, vạch lỗi các cơ quan, quan lại các cấp từ trung ương đến địa phương, giám sát việc thi hành luật pháp và quy định của triều đình.
Cơ mật viện thành lập năm 1834, có nhiệm vụ tham mưu, tư vấn cho nhà vua các vấn đề chiến lược về quân sự, quốc phòng, an ninh, việc bang giao và cả những vấn đề kinh tế, xã hội.
Bên cạnh Lục khoa có nhiệm vụ giám sát Lục bộ và các cơ quan ở kinh đô còn có Giám sát ngự sử 16 đạo (phụ trách giám sát các địa phương).
Hệ thống văn bản hành chính được chuyên môn hoá và quy định chặt chẽ. Việc xét xử và giải quyết kiện tụng cũng được quan tâm đặc biệt.
=> Cải cách tập trung quyền lực vào tay nhà vua, chế độ giám sát được chú trọng và tăng cường.