''Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ chuyên trú ở văn chương.Loại đáng thờ chuyên trú ở con người.''
Dựa vào một số văn bản đã học trong chương trình lớp 8, lớp 9 em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
[TÌM HIỂU NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÍ LUẬN VĂN HỌC CHO VĂN CHUYÊN - PART 2]
“Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người".
(Nguyễn Minh Châu)
- ĐẶC ĐIỂM CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC -
1. Đặc điểm ngôn từ:
Ngôn là chất liệu của văn học, là phương tiện để miêu tả cái hiện thực đời sống và biểu hiện cho những suy tư - trăn trở - tình cảm của nhà văn. Ngôn từ cũng là một loại lời nói nhưng là được sử dụng nhằm xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật cho tác phẩm. Ngôn từ trong văn chương phải có tính hình tượng, tính biểu cảm, tính hàm súc, phẩm chất thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật thì mới có khả năng làm lay động, cuốn hút lòng người và khơi dậy những cảm xúc từ những câu từ “tình hay ý đẹp". Mặt khác, từ ngữ văn chương phải được chắt lọc sao cho hàm súc nhất nhưng vẫn thể hiện rõ được nét nghĩa, miêu tả được chính xác bản chất của sự vật hiện tượng và chứa đựng nhiều tầng nghĩa, ấy là “ý tại ngôn ngoại".
2. Đặc điểm về hình tượng:
Hình tượng trong văn học là một hình tượng không cụ thể, được xây dựng nên từ ngôn từ của nhà văn và trí tưởng tượng và khả năng liên tưởng của người đọc. Hình tượng nhà văn tạo ra là một thể trừu tượng, có khi chỉ là vài nét chấm phá không rõ ràng, chỉ “gợi" mà không “tả", điều đó bắt buộc mỗi người đọc phải biết cảm thụ lấy từng con chữ, phải biết suy ngẫm, lồng ghép và tưởng tượng nên cho bản thân mình một hình tượng lý mẫu phù hợp với vẻ đẹp hình mẫu của chính mình. Tạo ra được một hình tượng là cả một quá trình, nó sẽ rèn cho chúng ta khả năng về tư duy, nuôi dưỡng và kích thích trí tưởng tượng cũng như khả năng liên tưởng sắc bén. “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc”.
3. Đặc điểm về ý nghĩa:
a) Phản ánh những hiện thực của đời sống
Văn học bắt nguồn từ đời sống và phản ánh hiện thực đời sống. Mọi tác phẩm văn học dù có phong phú đến đâu thì đều mang trong mình hơi thở của cuộc sống, hình bóng của thời đại và hiện thực đời sống ở thời kỳ nó sinh ra. Nhưng cái phản ánh đó không phải là cái phản ánh thô thiển hay đem hiện thực cuộc đời vào văn học một cách trực tiếp mà sự phản ánh ấy là cả một quá trình tìm hiểu, chắt lọc, nhào nặn và hệ thống lại tất cả những yếu tố theo trí tưởng tượng của nhà văn một cách nghệ thuật và hài hoà. Vì vậy mà bức tranh đời sống trong các tác phẩm luôn vừa thực vừa hư, vừa giống lại vừa không giống, là sự hài hoà giữa trí tưởng tượng của tác giả và những hiện thực của cuộc đời. Những phản ánh ấy đều đi theo ý kiến chủ quan từ người viết, nó mang theo nỗi niềm suy tư, trăn trở, sự nghiễn ngẫm về đời và ý nghĩa của đời.
b) Bày tỏ những tâm tư, tình cảm, trăn trở, … của nhà văn
Văn học là một phương tiện để bộc lộ trực tiếp những tâm tư thầm kín của tác giả trước cuộc đời và con người. Đến với văn chương, người viết có thể tự do bộc bạch những nỗi lòng và cảm xúc của mình. Đó có thể là những ngại ngùng thuở ban đầu, những nỗi niềm day dứt, những đau thương dày vò hay những lưu luyến bồi hồi, … về những triết lý nhân sinh và cuộc sống. Tình cảm trong văn chương là tình cảm bắt nguồn từ đời sống, do đó nhà văn phải thực sự sống thật với đời, với chính bản thân mình thì tình cảm và giá trị của tác phẩm mới sâu sắc và đủ thấm để động lại trong lòng độc giả. Một trái tim với một tâm hồn lớn sẽ sinh thành nên những tác phẩm mang tư tưởng lớn, một trái tim nhạy cảm với một tâm hồn tinh tế sẽ sinh ra những tác phẩm bắt được cái vẻ đẹp tinh tuý mà man mác của vũ trụ.
c) Thường đa nghĩa
Văn học không chỉ để ta nhìn thấu những hiện thực của đời sống mà còn là cách để ta cảm nhận được những tâm tư của nhà văn đối với đời. Nội dung của tác phẩm phải là sự dung hòa, xuyên thấm vào nhau trong từng câu từng chữ giữa sự khách quan hiện thực cuộc sống với những suy tưởng, tình cảm của nhà văn. Tác phẩm văn học là sự đa nghĩa, chúng có nhiều mặt cắt khác nhau với những suy tư khác nhau, mỗi góc nhìn của người đọc sẽ cho thấy những cách cắt nghĩa khác nhau về nó. Bởi văn chương là tính tư duy và logic chính là như thế.
4. Đặc điểm về tính sáng tạo của nhà văn:
Văn chương đòi hỏi sự sáng tạo, những điều mới mẻ nếu chúng ta lặp lại những điều cũ kĩ sẽ làm chết mòn đi tính nghệ thuật của nó. Sự sáng tạo trong văn học vừa phản ánh những khía cạnh mới trong đời sống vừa khoác lên mình diện mạo mới với những dấu ấn, … và phong cách riêng biệt của nhà văn. Muốn có sự sáng tạo bắt buộc mỗi tác giả phải có những mắt nhìn khác biệt, phải giàu cá tính và tạo nên những dấu ấn riêng, “mỗi người một vẻ" tạo nên một vườn thơ ca đầy hương sắc trong Văn đàn Văn học Việt Nam. Sáng tạo ở đây không phải là lập dị, đi ngược lại với quy luật sáng tạo nghệ thuật, phản văn hoá, … mà là tạo lập nên cho bản thân mình những bản sắc và dấu ấn riêng, có tính đóng góp những giá trị mới cho sự phát triển của nghệ thuật và văn học.
___________________________________________________________________________
MỘT SỐ CÂU LÝ LUẬN VĂN HỌC HAY
1. "Tác phẩm văn học chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện."
(Aimatov)
2. "Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa."
(Chế Lan Viên)
3. "Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực."
(Stendhal)
4. "Tác phẩm văn học là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp."
(Sóng Hồng)
5. "Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương."
(Tố Hữu)
Đọc tư liệu, tổng hợp và viết xong bài này trong 1 tiếng rưỡi đồng hồ xong là đau hết lưng 🥺
e hóng suốt giờ có part 2 làm tư liệu học tập
dzui ghê! e cảm ơn chị nhìu nhìu...
Đề 1: Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn văn Siêu có viết: "Văn chương [...] có loại đáng thờ, có loại ko đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.
Bài làm cần có các nội dung sau:
- Phân tích lí giải hai loại văn chương: "Chỉ chuyên chú ở văn chương" và loại "Chuyên chú ở con người".
+ Thế nào là văn chương "Chỉ chuyên chú ở văn chương"?
Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý đến nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống,vân mệnh con người, không có trách nhiệm đối với xã hội.
+ Thế nào là văn chương "chuyên chú ở con người"?
Đó là loại văn chương quan tâm trước hết đến cuộc sống con người vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương ở chỗ nó có ích cho cuộc đời.
- Nêu ý kiến về quan niệm của Nguyễn Văn siêu:
+ Vì sao loại đáng thờ là loại "Chuyên chú ở con người" chứ không phải loại "Chuyên chú ở văn chương"?
NVS muốn nói đến chân giá trị của văn chương . Nếu văn chương không quan tâm đến con người thì văn chương sẽ tự đánh mất mình. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Cái tâm thường nuôi dưỡng, phát huy cái tài.
- Liên hệ đến các nhà văn có cùng quan điểm như NVS.
a) Trong Chương trình Ngữ văn lớp 6 và học kì I lớp 7, em đã học nhiều bài thuộc các thể truyện, kí (loại hình tự sự) và thơ trữ tình, tùy bút (loại hình trữ tình). Bảng kê dưới đây liệt kê các yếu tố có trong các văn bản tự sự, trữ tình và nghị luận. Căn cứ vào hiểu biết của mình, em hãy chọn trong cột bên phải những yếu tố có trong mỗi thể loại ở cột bên trái, rồi ghi vào vở.
b) Dựa vào sự tìm hiểu ở trên , em hãy phân biệt sự khác nhau căn bản giữa văn nghị luận và các thể loại tự sự, trữ tình.
c) Những câu tục ngữ trong Bài 18, 19 có thể coi là loại văn bản nghị luận đặc biệt không? Vì sao?
a. Các yếu tố có trong văn bản tự sự, trữ tình và nghị luận:
b. Đặc điểm nổi bật của văn nghị luận là việc sử dụng các yếu tố luận điểm, luận cứ để lập luận. Tuy nhiên, trong văn nghị luận người ta có thể sử dụng miêu tả, kể chuyện, biểu cảm để làm tăng sức thuyết phục.
c. Các câu tục ngữ trong Bài 18, 19 là nghị luận. Căn cứ vào đặc trưng của từng loại văn để nhận diện đặc điểm của các câu tục ngữ về phương thức biểu đạt. Nếu cho rằng các câu tục ngữ này là một loại văn bản nghị luận thì phải chứng minh được rằng chúng mang những đặc điểm cơ bản của văn nghị luận.
so sánh thể loại trong nội dung học đọc có gì giống và khác nhau giữa các thể loại em đã được học trong chương trình lớp 6,7 và 8
Người ta làm một cái hộp phải hình thờ chủ nhật không có nắp bằng việc ở chùa với đại là 12,3cm, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài và chiều cao là 15cm. Tính diện tích điều cần làm, địa phần mép gián không đáng kể
Chiều rộng cái hộp đó là:
12,3 x 2/3 = 8,2 [cm]
Diện tích mặt đáy của cái hộp đó là:
12,3 x 8,2 = 100,86[m2]
Diện tích xung quanh của cái hộp đó là:
100,86 x 15 = 1512,9[cm2]
Diện tích bìa để làm cái hộp đó là:
1512,9 + 100,86 = 1613,76[cm2]
Đáp số:1613,76 cm2
Đâu không phải là tục thờ cúng của người Văn Lang, Âu lạc?
A. Thờ cúng tổ tiên
B. thờ thần sông, thần núi. thần mặt trời
C. người chết trong thạp mộ
D. thờ khổng tử
Thể loại văn học nào em không học trong Chương trình Ngữ văn lớp 7 ?
A. Tiểu thuyết
B. Truyện ngắn
C. Nghị luận
D. Thơ
Tìm những từ ngữ được lặp lại để liên kết câu:
a) Niềm tự hào chính đáng của chúng ta trong nền văn hóa Đông Sơn chính là bộ sưu tập trống đồng hết sức phong phú. Trống đồng Đông Sơn đa dạng không chỉ về hình dáng, kích thước mà cả về phong cách trang trí, sắp xếp hoa văn.
NGUYỄN VĂN HUYÊN
Trong một sáng đào công sự, lưỡi xẻng của anh chiến sĩ xúc lên một mảnh đồ gốm có nét hoa văn màu nâu và xanh, hình đuôi rồng. Anh chiến sĩ quả quyết rằng những nét hoa văn này y như hoa văn trên hũ rượu thờ ở đình làng anh.
HÀ ĐÌNH CẨN
a) Từ ngữ được lặp: Đông Sơn, trống đồng.
b) Từ ngữ được lặp: anh chiến sĩ, nét hoa văn.
Phân tích 1 tác phẩm trong chương trình ngữ văn 8 để chứng minh rằng văn học luôn ca ngợi những ai biết thương người như thể thương thân và nghiêm khắc phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn (Cụ thể là bài tức nước vỡ bờ) KO chép mạng Dàn ý: -MB -Giải thích -Giới thiệu tác phẩm -Ý 1: thương người như thể thương thân -Ý 2: phê phán phán những kẻ thờ ơ, vô cảm, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn -Bàn luận mở rộng -Bài học, liên hệ bản thân -Kết bài
Viết văn bản tóm tắt một văn bản tự sự đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 8 (Lão hạc, Chiếc lá cuối cùng,…) và một văn bản sẽ học ở bài 5 Ngữ văn 9 (Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh hoặc Hoàng Lê nhất thống chí).
* Tóm tắt truyện Lão Hạc
Lão Hạc là ông lão nông dân hiền lành, chất phác, do không có tiền cho con trai cưới nên cậu con trai bỏ đi đồn điền cao su. Lão ở nhà sống với cùng một con chó tên Cậu Vàng, người bạn trung thành với lão. Vì lão ốm yếu, già cả nên không ai thuê lão, lão không kiếm được cái ăn. Lão bán con Vàng và nhờ ông giáo cất tiền cho con trai lão, lão tự dành tiền để lo ma chay cho mình không làm phiền đến hàng xóm láng giềng. Lão không nhận sự giúp đỡ của bất kì ai, Lão chọn cái chết dữ dội đau đớn bằng bả chó để kết thúc sự sống khổ cực của mình.
* Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí
Ngay sau khi nghe tin giặc Thanh vào xâm lược, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung, sau đó đích thân đốc xuất đại binh ra Thăng Long dẹp giặc, trên đường ra Bắc tiến hành tuyển quân. Tới 30 tháng chạp, vua cho tiệc khao quân, hẹn mùng 7 vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Bằng tài chỉ huy thao lược của Quang Trung, đạo quân Tây Sơn giành thắng lợi. Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh sợ sệt tìm đường tháo chạy. Vua tôi Lê Chiêu Thống, cùng bọn quan lại bán nước cũng bỏ chạy theo.