dựa vào câu truyện : trái táo bác hồ , em hãy kể lại câu truyện đó
ngày xửa ngày xưa có hai mẹ con sống hạnh phúc một hôm người mẹ bị ốm nặng và chỉ có để khỏi bệnh khi được ăn một trái táo trên đỉnh núi cao người con ra đi trải qua bao khó khăn trở lại cuối cùng là mang được trái táo gửi về cho mẹ dựa vào cốt truyện trên em hãy tưởng tượng và bằng lời của người kể lại câu chuyện của mình.
tham khảo nè:>
Ngày xưa , ở một ngôi làng nọ có hai mẹ con sống rất hạnh phúc . Bà mẹ làm lụng chăm chỉ để nuôi con khôn lớn . Ngày tháng thoi đưa , thấm thoắt người con đã trưởng thành . Còn người mẹ thì ngày một già yếu . Một hôm , bà lão bị bệnh rất nặng . Bà nói với con trai rằng : " Ôi ... con ơi , mẹ cảm thấy rất mệt , nhưng mẹ chỉ muốn ăn một trái táo thơm ngon . Nếu con thương mẹ , con hãy đi tìm trái táo về cho mẹ , để mẹ thoả lòng mà nhắm mắt " . Người con vâng lời mẹ . Sáng hôm sau , anh quyết định nhờ bà con lối xóm chăm sóc cho mẹ của mình để mình được yên tâm lên đường . Người con bịn rịn : " Cháu nhờ các bác , các cô chú chăm nom mẹ cháu giùm . Cháu sẽ cố gắng lên đường tìm trái táo thơm ngon nhất về cho mẹ của cháu " . Nói rồi , chàng trai dặn dò mẹ , một lúc sau thì lên đường .
Trên đường đi tìm trái táo , người con vừa lo cho mẹ , vừa cố gắng đi tìm . Anh đi mãi , đi mãi , lâu lắm mà vẫn chưa tìm được một trái táo nào . Bỗng nhiên , anh lạc vào một khu rừng . Anh hốt hoảng , hoang mang , không biết đi về đâu , bỗng nhiên xuất hiện một người con gái cùng với một chú sóc nhỏ . Cô gái ấy là con của Thần Rừng . Cô hỏi han anh ân cần , rồi chỉ tay về hướng Tây và nói : " Anh hãy đi theo đường mà tay tôi chỉ , đến đó sẽ gặp một ngôi làng nhỏ . Trong làng có một bà lão trạc 80 tuổi . Bà ấy sẽ ngồi đợi anh đến để đưa trái táo . Hãy đi nhanh kẻo muộn " . Nói xong , cô gái biến mất . Chàng trai nghe theo lời . Đến một ngôi làng , chàng trai đinh ninh rằng đây chắc chắn là ngôi làng mà cô gái nhắc tới . Chưa kịp bước chân , anh đã thấy một đám thanh niên tay cầm mác , chĩa vào người anh . Một chàng trai trong đám thanh niên cất lời : " Hỡi chàng trai , anh định đi đâu , làm gì ở đây ? " . Chàng trai đáp : " Tôi được một cô gái chỉ đến nơi đây để tìm trái táo , nếu được các anh hãy cho tôi đến nơi có một bà lão trạc 80 tuổi ". Các chàng trai tỏ ý thân thiện , bảo chàng trai đi theo . Đến một căn nhà nhỏ nằm sát bờ suối , chàng trai đi vào và cất tiếng hỏi : " Bà lão ơi , con đến đây tìm táo về cho mẹ ạ " . Bà lão xuất hiện : " Ta đã chờ con lâu lắm rồi . Bây giờ , con hãy đi ra vườn , tìm trái táo to nhất ta đã dành cho con về đưa cho mẹ " . Chàng trai nhanh nhẹn đi ngay . Ra vườn , chàng trai thấy có một trái táo màu đỏ , trông đẹp mắt đến lạ . Chàng vội hái trái táo , chạy vào nhà định cảm ơn bà lão thì chẳng thấy bà đâu . Chàng trai gọi nhưng bà không thưa . Thấy vậy , chàng để lại một ít gạo cho bà và lại trở về nhà .
Về đến nhà , chàng trai reo lên : " Mẹ ơi , con đã tìm được trái táo rồi mẹ ạ " . Bà mẹ nghe thấy , mừng rỡ . Chàng trai vội đưa trái táo cho mẹ . Ăn xong , bà lão khoẻ mạnh trở lại . Từ đó hai mẹ con bà sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi .
Các bạn thấy đấy , chàng trai trong câu chuyện này thật hiếu thảo phải không nào ? . Chỉ vì mẹ muốn ăn trái táo mà chàng đã không ngại khó đi tìm về cho mẹ . Quả là người tốt luôn luôn được những người khác giúp đỡ . Chúng ta nên học theo anh chàng trong câu chuyện này nhé
Ngày xửa ngày xưa ở ngôi làng nọ có hai mẹ con sống bên nhau rất hạnh phúc. Một hôm người mẹ bị ốm nặng bà mẹ muốn ăn một trái táo thơm ngon, người con đã quyết định đi tìm trái táo về biếu mẹ.
Hai mẹ con sống với nhau trong mái nhà tranh trật trội. Tuy trong nhà không có đồ gì nhưng hai mẹ con sống với nhau rất hạnh phúc. Người mẹ hết mực yêu thương đứa con trai yêu quý của mình nên bà luôn tần tào sớm khuya chăm sóc cậu con trai của mình. Cậu con trai ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành. Ngoài việc học hành, anh còn giúp mẹ lên rừng đốn củi, tỉa bắp hái ngô….Cuộc sống tuy còn nhiều khó khăn nhưng tối tối, bên ánh đèn dầu, hai mẹ con ăn bữa cơm tuy giản dị nhưng chứa chan niềm vui, niềm hạnh phúc. Tưởng chừng cuộc sống với hai mẹ con sẽ mãi mãi hạnh phúc nhưng than ôi,do làm việc quá sức, bà mẹ bị ốm nặng. Bà khát khao dược ăn trái táo chín thơm. Người con thương mẹ lắm! Anh nấu cháo cho mẹ ăn, sặc thuốc cho mẹ uống. Anh mời hết thầy thuốc này đến thầy thuốc kia đến khám chữa bệnh cho mẹ. Nhưng bệnh tình của mẹ vẫn không thuyên giảm. Anh đi hết ngôi làng này đến ngôi làng kia tìm trái táo cho mẹ nhưng không tìm thấy đâu ra một trái táo. Anh rất buồn. Đêm hôm ấy, anh nằm túc trực bên giường mẹ. Mệt quá anh thiếp đi lúc nào không biết. Trong giấc mơ, anh gặp một bà tiên râu tóc bạc phơ, bà nhẹ nhàng hỏi:
-Cháu có muốn đi tìm trái táo về biếu mẹ không?
-Dạ thưa bà có ạ!
-Được, ta đã giúp con, ta sẽ cho con cuộn len hồng này, cuộn len này thả đi hướng nào con sẽ đi theo nó. Và con sẽ tới nơi.
Bất ngờ bà tiên biến mất. Anh tỉnh dậy. Trên tay anh quả là cuộn len hồng. Sáng hôm sau anh chuẩn bị hành lý và nhờ bà con hàng xóm trông nom giúp mẹ mình. Anh bắt đầu ra đi. Anh đi theo cuộn len. Anh đi mãi, đến tối anh mới tới được khu rừng già. Trời đã khuya, anh chẳng nhìn thấy gì mà đi nữa.
Anh bèn ngủ lại trong rừng. Chao ôi! Khu rừng này mới lạnh lẽo âm u làm sao! Những âm thanh nghe rởn cả người. Hổ gầm, vượn hú, rắn trương qa người anh nhưng anh vẫn phải nằm im chờ trời sáng. Sáng hôm sau, anh lại tiếp tục lên đường. Đi qua rừng thật gian nan, vất vả, có lúc phải đi qua bụi gai, có chỗ cào rách da rách thịt, anh vẫn mặc, vẫn cứ đi. Qua được khu rừng già, anh tưởng sẽ tới nơi có trái táo, nào ngờ cuộn len lại thả qua dòng suối.Anh đi trên dòng suối, đá lổm trổm làm bàn chân anh sưng tấy. Trước mắt anh là dãy núi cao ngất trời, khó có thể vượt qua được. Anh rất lo lắng không biết làm thế nào để vượt qua dãy núi. Anh suy nghĩ: “ Về ư ? Về thì lấy đâu ra trái táo cho mẹ ăn ? Mẹ đang khát khao ăn mà! Không, không được! Ta phải lấy được trái táo mới được !” Anh suy nghĩ đến đấy, anh lấy mo cơm ra ăn. Rồi anh bắt đầu leo. Bàn tay anh cứ bám lâý các phiến đá, chân anh từng bước từng bước leo lên. Bằng sự quyết tâm va nghị lực kiên cường, chịu thương chịu khó, ngọc núi cao chót vót kia cũng phải quy hàng. Chao ôi! Đúng là nơi thần tiên! Một rừng táo sai trĩu quả! Quả nào quả ấy chín đỏ trên cây. Anh vô cung ngạc nhiên vì trước mắt anh là một bà lão râu tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ. Bà tươi cười bảo:
-Con quả là cậu bé hiếu thảo. Con hãy mang ngay trái táo về cho mẹ.
Người con cầm trái táo trên tay, nói:
-Cháu cảm ơn bà rất nhiều! Cả đời cháu sẽ không bao giờ quên ơn bà!
Vừa nói xong, bà phất cây phất trần. Ngay lập tức, một chú đại bang hùng dũng đã xuất hiện ngay.Anh ngồi lên lưng chim, ngay lập tức anh đã về đến nhà. Chính lúc đó, bà mẹ sắp qua đời. Anh vội vào nhà, gọt táo cho bà ăn. Một miếng, hai miếng, ba miếng,….Bà dần dần tỉnh lại, hồi phục sức khoẻ. Hai mẹ con thầm cảm ơn bà tiên rất nhiều.
Qua bao nhiêu gian nan thử, người con đã tìm được trái táo biếu mẹ. Anh quả là người con hiếu thảo. Anh quả lầ tấm gương sáng cho thế hệ học sinh chúng em noi theo.
Dựa vào bản tóm tắt truyện sự tích trái sầu riêng, em hãy kể lại truyện bằng ngôn ngữ nói
Tham khảo:
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ. Chàng từng cầm quân mấy lần đánh cho tan tác thầy trò Nguyễn Ánh.
Nhà Tây Sơn mất, Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người từng theo nhà Tây Sơn.
Nhân dân trong xóm quý mến chàng, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ để tiện đi lại. Và chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp.
Một hôm, chàng dừng thuyền, lên bộ để mua sắm thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà-lon, về đến đây thì người con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng đã cứu chữa cho cô gái khỏi bệnh. Sẵn có thuyền, chàng chở họ về tận nhà.
Cô gái đem lòng quyến luyến chàng. Sau một tuần chay tạ ơn Trời, Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui mừng nhận lời và từ đó hai vợ chồng làm ruộng, nuôi tằm, xây dựng gia đình đầm ấm.
Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây “tu-rên” mà ở xứ sở chàng không có. Mùa trái chín đến, vợ bổ một trái đưa cho chồng ăn. Trái “tu-rên” vốn có một mùi khó chịu. Thấy chồng nhăn mặt, vợ bảo:
– Anh ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.
Không ngờ một ngày kia, vợ đi dâng hương Đế Thiên, Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tuy cách trở âm dương, nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng.
Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê nhà nhắn tin lên bảo chàng về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết sẽ đi theo cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy, cây “tu-rên” tự nhiên chỉ ra mỗi một trái. Trái “tu-rên” ấy lại tự nhiên rụng vào vạt áo chàng giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ, quyết đưa nó cùng về xứ sở.
Chàng lại trở về nghề dạy học, nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt “tu-rên” thành cây, đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đấy ngoài công việc dạy học, chàng còn có việc chăm nom cây quý.
Nhưng cây “tu-rên” của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã lốm đốm bạc. Nhưng ông thấy lòng mình trẻ lại khi những cây mà ông bấy lâu chăm chút nay bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng, làng xóm tới nhà nhân ngày giỗ vợ và nhân thể thưởng thức một thứ trái lạ chưa hề có ở trong vùng.
Khi những trái “tu-rên” được bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Chủ nhân biết ý, đã nói đón: “… Nó xấu xí, có mùi khó chịu, nhưng chính những múi của nó ở trong lòng lại đẹp đẽ, thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ…”. Ông ta vừa nói vừa bổ những trái “tu-rên” chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Đoạn, ông ta kể hết câu chuyện tình duyên xưa mà từ khi về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy, hai giọt lệ long lanh tự nhiên nhỏ vào múi “tu-rên” đang cầm ở tay. Hai giọt nước mắt ấy sôi lên trên múi “tu-rên” như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.
Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy, dân làng mỗi lần ăn thứ trái đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi “tu-rên”bằng hai tiếng “sầu riêng” để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng loại hạt có hai giọt nước mắt của chàng mới là thứ sầu riêng có trái ngon và thơm hơn các thứ khác.
Dựa theo tranh, kể lại từng đoạn câu chuyện Bác sĩ Sói.
Em hãy quan sát kĩ các bức tranh, kết hợp với nội dung đã đọc và kể lại truyện.
- Tranh 1 : Trông thấy Ngựa đang gặm cỏ, Sói ta thèm thuồng đến rỏ dãi.
- Tranh 2 : Sói cải trang thành bác sĩ với cặp kính đeo mắt, đầu đội mũ chữ thập, khoác áo choàng trắng, đeo ống nghe và tiến đến gần Ngựa.
- Tranh 3 : Sói mon men tiếng lại gần Ngựa và dụ dỗ. Ngựa nhón nhón chân vờ cho Sói khám bệnh.
- Tranh 4 : Ngựa tung vó đá một cú trời giáng, làm Sói bật ngửa, bốn cẳng huơ giữa trời, kính vỡ tan, mũ văng ra.
Dựa vào bài thơ "Sa bẫy", em hãy tưởng tượng và kể lại câu truyện
|
Mấy ngày hôm nay, chẳng hiểu sao trong nhà bé Mây xuất hiện một lũ chuột. Chúng tinh quái phá phách, nghịch ngợm đồ đạc khắp nơi. Mọi người vô cùng bực mình và khó chịu. Phải tốn công lắm, bé Mây mới nghĩ ra một kế.
Thế là chiều hôm ấy, một buổi chiều mát mẻ và dễ chịu, Mây rủ mèo con cùng nhau đặt bẫy chuột. Bé chuẩn bị rất cẩn thận và chu đáo: nào cá nướng thơm lừng, chiếc cạm sắt mới tinh, rồi từ từ đổ cá vào bẫy. Đêm hôm đó, nằm trên giường, cơn gió mùa thu dịu mát lùa vào ô cửa sổ. Bên ngoài trăng sáng vằng vặc, xung quanh là trăm ngàn ngôi sao kỳ diệu đang làm sáng cả bầu trời trông như những ánh nến lung linh huyền ảo, bé Mây nằm và suy nghĩ, tưởng tượng. Chắc hẳn giờ này, lũ chuột kia không kìm nén được sự tham lam đã chui vào bẫy của ta đánh chén món cá rồi đây. Bé Mây tự nhủ và lại thì thầm tâm sự với mèo con. Mèo ta thích chí, tán thành ý tưởng của cô chủ. Nó khẽ rung rung bộ ria mép, gật gù tán thưởng. Thế rồi, bé Mây đã chìm sâu vào giấc ngủ với giấc mơ về một lồng đầy chuột mắc bẫy rồi cô cùng người bạn chí thân Mèo con, đem chúng ra xét tội. Nhất định bọn phá hoại này phải bị trừng trị thích đáng dù chúng có khóc ròng xin tha!
Sáng sớm, khi những ánh nắng ban mai rực rỡ chiếu qua chiếc giường nhỏ bé xinh xắn, bé Mây vùng dậy, bừng tỉnh, chạy vội xuống bếp xem tình hình. Ôi thôi! Cái bẫy đã sập, cá cũng hết, chẳng thấy con chuột tinh quái nào mà kẻ sa bẫy bây giờ lại chính là Mèo con. Bé Mây sững sờ và ngỡ ngàng nhưng rồi cô chợt hiểu ra rằng cô đã quá ngây thơ. Thì ra nụ cười và sự đồng tình của Mèo con hôm qua đã ẩn chứa một âm mưu của Mèo. Đúng thế, với Mèo còn gì thích hơn cá nướng? Đó là món ăn sở trường của chú ta! Bé Mây cảm thấy rất tiếc cho kế hoạch của mình đã đổ bể nhưng hơn hết, qua chuyện này, cô bé cũng tự rút ra cho mình một kinh nghiệm, một bài học quý giá trong cuộc sống.
Câu chuyện không chỉ của bé Mây mà nó còn là của chúng ta! Vâng, đó là đừng quá thơ ngây, không suy nghĩ chín chắn trước khi làm một việc gì đó.
Mấy bữa nay, lũ chuột nhắt thi nhau phá phách. Chúng ăn vụng thức ăn, gặm sách, thậm chí cắn rách cả chiếc áo bằng satanh hồng của cô búp bê xinh đẹp. Bé Mây giận lắm, nghĩ cách trừng trị chúng. Bé thì thầm bàn bạc hồi lâu với Mèo con. Mèo con thích chí gật gù rồi rung râu cười tít.
Xẩm tối, một chiếc bẫy lồng bằng lưới sắt được đặt dưới gầm trạn đựng thức ăn, ngay trên đường lũ chuột thường đi. Miệng bẫy mở rộng. Trong bẫy, một con cá nướng thơm phức được móc vào đoạn dây kẽm uốn cong như chiếc móc câu. Đêm nay, lũ chuột nhắt tham ăn thế nào cũng bị mắc bẫy.
Mọi việc sắp đặt xong xuôi, bé Mây ngồi vào bàn học bài. Gió hây hẩy thổi qua khung cửa sổ. Ngoài kia, bầu trời đầy sao nhấp nháy như những cặp mắt tinh nghịch. Bé Mây ra sân vươn vai hít thở không khí trong lành rồi sửa soạn đi ngủ. Nằm bên cạnh mẹ một lúc là bé đã ngủ ngon lành.
Bé mơ thấy lũ chuột sa đầy trong bẫy. Chúng cuống quýt chạy quanh trong chiếc lồng chật hẹp, khóc lóc xin tha. Bé Mây cùng Mèo con thay nhau hỏi tội chúng. Tội lũ chuột này nhiều lắm! Làm sao tha được!
Trong lúc bé Mây ngủ, Mèo con thu mình nằm ở góc bếp. Chú giỏng tai lên nghe ngóng, rình từng bước chân rón rén của lũ chuột. Chiếc mũi rất thính của Mèo con có thể ngửi thấy mùi hôi của lũ chuột từ xa.
Nhưng... ôi! Mùi gì mà thơm thế nhỉ! Mèo con hít hít dò tìm. Mùi cá nướng thơm lừng cả mũi. Thèm quá, không thể nhịn được nữa, Mèo con chui tọt vào bẫy. Tách! Bẫy sập, Mèo con bị nhốt ở trong. Chẳng hề sợ hãi, Mèo con ung dung xơi hết miếng mồi ngon lành. Ăn xong, chú lăn ra ngủ.
Ò... ó... o! Tiếng gáy của anh Gà Trống Tía vang lên giòn giã, gọi ông Mặt trời. Một ngày mới bắt đầu. Bé Mây cũng đã thức giấc. Chợt nhớ đến giấc mơ đêm qua, bé tung tăng chạy xuống bếp. Ô! Sao lại thế này? Chuột đâu chẳng thấy, chĩ thấy giữa lồng, Mèo con đang ngủ ngon lành. Bé Mây bật cười tự hỏi: “Liệu nó có mơ giống giấc mơ của mình đêm qua không nhỉ?”
Kể lại toàn bộ câu chuyện.
Em hãy kể lại toàn bộ câu chuyện dựa theo nội dung truyện đã đọc.
HƯỚNG DẪN KỂ
Trong quang cảnh nhộn nhịp của giờ ra chơi, xuất hiện giữa sân trường một chú bộ đội. Đó là bố của Dũng. Chú tìm đến lớp con trai mình để chào thầy giáo cũ.
Gặp thầy giáo, chú bỏ mũ ra, kính cẩn chào thầy. Thầy ngạc nhiên, chưa kịp nhận ra thì chú nói:
- Thưa thầy, em là Khánh, đứa học trò năm xưa trèo cửa sổ bị thầy phạt đây ạ.
- À, Khánh… Thầy nhớ ra rồi. Nhưng hôm ấy thầy có phạt em đâu.
- Vâng. Thầy không phạt nhưng thầy buồn. Thầy nói: “Trước khi làm việc gì cần phải nghĩ chứ ! Em về đi, thầy không phạt em đâu”.
Vào lớp, Dũng theo dáng bố và nghĩ: Bố cũng có lần mắc lỗi, thầy không phạt nhưng bố vẫn nhận ra đó là hình phạt và nhớ mãi. Nhớ để không bao giờ mắc lại nữa.
Dựa vào tranh, kể lại từng đoạn câu chuyện Bà cháu :
Em hãy quan sát 4 bức tranh, kết hợp với nội dung truyện đã đọc và kể lại.
- Tranh 1 : Ngày xưa có ba bà cháu tuy cuộc sống nghèo khổ nhưng cuộc sống lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc. Một hôm, có một cô tiên đi ngang qua và cho hai người cháu một hạt đào và dặn : “Khi nào bà mất, gieo hạt đào này bên mộ, các cháu sẽ được giàu sang, sung sướng”.
- Tranh 2 : Bà mất, hai anh em mang hạt đào của nàng tiên trồng bên mộ, cây đào lớn nhanh và kết thành bao nhiêu trái vàng, trái bạc.
- Tranh 3 : Tuy được sống trong cảnh đầy đủ, giàu sang nhưng hai anh em lúc nào cũng buồn bã vì thiếu tình thương của bà. Cô tiên hiện lên, hai anh em khóc lóc xin cô cho bà sống lại cho dù cuộc sống có cực khổ như xưa thì hai anh em vẫn chấp nhận.
- Tranh 4 : Cô tiên phất chiếc quạt màu nhiệm, lâu đài, ruộng vườn bỗng chốc biến mất. Người bà sống lại, móm mém, hiền từ, dang tay ôm hai đứa cháu hiếu thảo vào lòng.
bn hãy viết 1 câu chuyện kể về tấm gương đạo đức của Bác Hồ và rút ra bài học từ câu truyện đó ?
Phần truyện:
Mùa hè năm 1911, Bác đặt chân lên đất Pháp, đối với Bác, kể từ thời điểm đó mọi việc từ sinh hoạt hàng ngày, tới công việc, nhằm tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đều phải sử dụng tiếng Pháp. Vì thế, nếu không biết tiếng Pháp thì thật là “trở ngại lớn nhất trên con đường tìm đường cứu nước, cứu dân”. Bác đã đặt ra quyết tâm “Nhất định phải học nói, học học viết cho kỳ được” và Bác đã tìm ra được phương pháp học cho riêng mình dù trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn.
Ngay khi còn trên chuyến tàu sang Pháp (La-tu-sơ Tơ-rê-vin, dưới các tên Văn Ba) mỗi lúc rảnh rổi, Bác thường tìm đến hai người lính trẻ đi cùng chuyến tàu để học đọc và viết tiếng Pháp. Họ cho Bác mượn những quyển sách nhỏ in tiếng Pháp. Muốn biết rõ về cái gì, muốn biết đồ vật nào đó viết bằng tiếng Pháp như thế nào, Bác đều chỉ tay hỏi. Tối tối sau khi đi làm về, Bác ghi lại những từ mới vào. Học được chữ nào, Bác ghép chúng lại thành câu thực hành ngay.
Ban đầu, Bác tập ghép một vài từ, sau ghép thành đoạn, dần dần Người tập viết thành từng bài dài. Một thời gian sau, Bác tìm đến các tờ báo của Pháp để xin được viết bài đăng báo. Trong những lần gửi bài, Bác nói với mọi người trong Tòa soạn rằng: “Tôi rất sung sướng nếu bài viết này của tôi được đăng, nhưng dù thế nào cũng xin các đồng chí sửa lỗi tiếng Pháp cho tôi”. Sau mỗi lần bài viết của Bác được đăng báo, Bác vui mừng khôn xiết, và theo chỉ dẫn của những chủ bút Bác vẫn không quên xem lại từng câu từng chữ, xem bài viết của mình đúng sai chỗ nào, Toàn soạn báo đã sửa lại cho mình ra sao? Bác tập viết di viết lại, khi thì viết diễn giải ra cho dài, lúc là những đoạn ngắn cho súc tích.
Cứ sau mỗi ngày làm việc, dù công việc bận bịu tới đâu, Bác vẫn tranh thủ đọc vài trang tiểu thuyết, vừa để giải trí, thư giãn đầu óc lại vừa để trao dồi kiến thức. Bác tập viết những bài phóng sự. Sáng nào Bác cũng viết từ 5 giờ đến 6 giờ rưỡi, tới 7 giờ Bác lại bắt tay vào công việc. Dù trời nóng hay rét Bác cũng không nản chí. Thấm thoắt thời gian trôi đi, cho đến năm 1922, Bác đã trở thành chủ bút của tờ báo “Người cùng khổ” viết bằng 3 thứ tiếng. Tên báo bằng tiếng Pháp đặt ở giữa, chữ Ả Rập bên trái và bên phải là chữ Hán, tất cả đều do Bác viết. Do Tòa soạn báo không có Ban biên tập thường xuyên, nên nhiều khi Bác phải “cáng đáng” mọi việc từ khâu sửa chữa, biên tập bài vở, tới khâu bán báo.
Phần bài học rút ra:
Tranh thủ mọi cơ hội để học, Người đã tiến bộ không ngừng, và như chúng ta đã biết, Người có thể nói được rất nhiều thứ tiếng chính là do cách học tập kiên trì như vậy. Tự học với một tinh thần cầu tiến, cộng với sự khắc khổ và phương pháp đúng, Bác đã thành công!
=> Chúng ta cần phải học theo tấm gương đạo đức học tập của người.
đây là câu truyện mk tra mạng các bn đọc thử nha
Đầu năm 1946, cả nước ta tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên. Gần đến ngày bầu cử, tại Hà Nội – là nơi Bác Hồ ra ứng cử – có 118 Chủ tịch ủy ban nhân dân và đại biểu các giới hàng xã đã công bố một bản đề nghị: “Yêu cầu cụ Hồ Chí Minh không phải ứng cử trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới. Chúng tôi suy tôn và ủng hộ vĩnh viễn cụ Hồ Chí Minh là Chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa”.
Từ nhiều nơi trong cả nước, đồng bào viết thư đề nghị Bác không cần ra ứng cử ở một tỉnh nào, nhân dân cả nước đồng thanh nhất trí cử Bác vào Quốc hội.
Trước tình cảm tin yêu đó của nhân dân, Bác viết một bức thư ngắn cảm tạ đồng bào và đề nghị đồng bào để Bác thực hiện quyền công dân của mình: “Tôi là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của Tổng tuyển cử đã định. Tôi ra ứng cử ở Hà Nội nên cũng không thể ra ứng cử ở nơi nào nữa. Xin cảm tạ đồng bào đã có lòng yêu tôi và yêu cầu toàn thể đồng bào hãy làm tròn nhiệm vụ người công dân trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới”.
Sau ngày hòa bình lập lại, có lần Bác đi thăm một ngôi chùa cổ, vị sư chủ trì ra đón và khẩn khoản xin Bác đừng cởi dép khi vào trong chùa. Bác không đồng ý và lặng lẽ làm đúng những quy định như khách thập phương đến lễ chùa. Trên đường từ chùa về, khi vào đến thành phố, xe Bác đến một ngã tư thì vừa lúc đèn đỏ bật, sợ phố đông, xe dừng lâu, đồng chí bảo vệ định chạy lại đề nghị đồng chí công an giao thông bật đèn xanh để Bác đi. Bác hiểu ý ngăn lại:
– Các chú không được làm thế, phải tôn trọng và gương mẫu chấp hành luật lệ giao thông. Không được bắt luật pháp dành quyền ưu tiên riêng cho mình.
Dựa theo tranh, kể lại từng đoạn câu chuyện “Câu chuyện bó đũa” :
Em hãy quan sát tranh, kết hợp nội dung truyện đã đọc và kể lại.
- Tranh 1: Ngày xưa, có hai anh em lúc nhỏ sống rất hòa thuận, nhưng khi đã có gia đình riêng, ngày nào họ cũng cãi vã khiến người cha rất buồn phiền.
- Tranh 2: Một hôm, người cha gọi các con đến và đố xem ai là người bẻ được bó đũa, ông sẽ thưởng cho một túi tiền.
- Tranh 3: Bốn người con lần lượt bẻ bó đũa. Mặc dù cố hết sức mà họ chẳng thể nào bẻ gãy được.
- Tranh 4: Người cha bèn tháo bó đũa ra và bẻ từng cái rất dễ dàng.
- Tranh 5: Người cha khuyên các con phải biết đoàn kết lại với nhau, như vậy mới vững mạnh. Cả bốn người con cùng hiểu ra câu nói của cha : Thưa cha, chúng con sẽ vâng lời cha dặn !
Dựa vào tranh, kể lại nội dung chính của câu chuyện (đoạn 2, 3) bằng lời của em.
Em hãy quan sát tranh, kết hợp với nội dung truyện đã đọc và kể bằng lời của mình.
Tranh 1 : Chi nhìn ngắm những bông hoa màu xanh lộng lẫy. Chi giơ tay định hái nhưng lại chần chừ vì bạn biết nhà trường có quy định học sinh không được ngắt hoa.
Tranh 2 : Bỗng cánh cửa lớp mở ra, cô giáo rất ngạc nhiên vì Chi đến sớm. Chi nói:
- Xin cô cho em được hái một bông hoa. Bố em đang ốm nặng.
Cô nhẹ nhàng ôm bạn vào lòng:
- Em hái thêm hai bông nữa. Một bông cho em, một bông cho mẹ vì cả bố và mẹ đã dạy dỗ em thành một cô bé hiếu thảo.