Nhận xét về những quan điểm của tác giả Nguyễn Thiếp thể hiện trong văn bản Bàn luận về phép học. ( Gợi ý: xem xét tính đúng đắn. mức độ phù hợp với xã hội hiện nay...)
. Nhận xét về những quan điểm của tác giả Nguyễn Thiếp thể hiện trong văn bản Bàn luận về phép học. (Gợi ý: xem xét tính đúng đắn, mức độ phù hợp với xã hội hiện nay......)
Quan điểm của Nguyễn Thiếp :
- Chính sách ; +mở thêm trưong [ Con cháu trường học của phủ , huyện , các trường tư ] ;
+mở rộng thành phần người học [ con cháu các nhà văn võ , thuộc lại ở thị trấn cựu triều ];
+tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học [ tùy đâu tiện đấy mà đi học ]
- phương pháp học tập : +bắt đầu từ kiến thức cơ bản đến nâng cao [ lúc đấu học để bồi lấy gốc , Tuần tự theo ngũ kinh , chư sử ]
+học rộng nghĩ sâu nhưng phải biết rút ra những điều cơ bản cốt yếu nhất [ học rồi tóm lược cho gọn ]
+học kết hợp vs hành [ theo điều học mà làm
=) quan điểm tiến bộ , ko chỉ có ý nghĩa đvs đương thời mà luôn được áp dụng tới ngày nay ,
Quan điểm của Nguyễn Thiếp :
- Chính sách ; +mở thêm trưong (Con cháu trường học của phủ , huyện , các trường tư )
+mở rộng thành phần người học ( con cháu các nhà văn võ , thuộc lại ở thị trấn cựu triều)
+tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học ( tùy đâu tiện đấy mà đi học )
- phương pháp học tập : +bắt đầu từ kiến thức cơ bản đến nâng cao [ lúc đấu học để bồi lấy gốc , Tuần tự theo ngũ kinh , chư sử ]
+học rộng nghĩ sâu nhưng phải biết rút ra những điều cơ bản cốt yếu nhất ( học rồi tóm lược cho gọn )
+học kết hợp vs hành => theo điều học mà làm
=> Quan điểm tiến bộ , ko chỉ có ý nghĩa với đương thời mà luôn được áp dụng tới ngày nay.
Viết đoạn văn cho thấy điểm tiến bộ và điểm cần bổ sung so với ngày nay trong quan điểm học tập của Nguyễn Thiếp ( Bàn luận về phép học sgk ngữ văn 8 tập 2 )
HELP ME!
Điểm tiến bộ
Tư tưởng của Nguyễn Thiếp là nền tảng cho những quan điểm học đúng đắn ngày nay: học để làm người, học đi đôi với hành...
Điểm cần bổ sung
Mục đích của việc không không chỉ là biết rõ đạo làm người, rèn luyện đạo đức mà còn phát triển năng lực trí tuệ, rèn kĩ năng sống, có thể chất khỏe mạnh...để con người phát triển toàn diện. Từ đó mới có thể sống có ích, đóng góp, xây dựng đất nước.
Gợi ý
* Giải thích thế nào là học đi đôi với hành
Thế nào là học? Thế nào là hành? => Học đi đôi với hành là gì?
* Tại sao học phải đi đôi với hành
- Nếu hành mà không học thì sao? -> Dẫn chứng
Nếu học mà không hành thì sao? -> Dẫn chứng
Học đi đôi với hành mang lại hiệu quả, tác dụng như thế nào? -> Lilě+ Dẫn chứng
* Làm thế nào để học đi đôi với hành có hiệu quả: đưa ra nhưng giải pháp, hành động cụ thể.
* Bàn luận mở rộng: phê phán lối học đối phó, học chay, học vẹt...
* Liên hệ bản thân.
từ tình cảm, thái độ được thể hiện trong bài viết Bàn luận về phép học, hãy nêu cảm nhận của em về tác giả Nguyễn Thiếp
Từ quan điểm của Nguyễn Thiếp về việc học trong văn bản '' bần về phép học". Em hãy viết đoạn văn 6-8 câu
trình bày quan điểm của em về việc học trong xã hội hiện nay
tham khảo nha ^^
Giới thiệu về luận điểm:
Nguyễn Thiếp đã đưa ra những nhận định hoàn toàn đúng đắn về việc học nhưng từ đó cũng có thể thấy rằng: Phương pháp học tập của học sinh, sinh viên hiện nay là chưa đúng đắn. Vẫn còn có hiện tượng gian lận trong thi cử, đến trường không còn mang mục đích học của học sinh, sinh viên hiện nay.
- Giải thích:
+ Học thực chất là sự tìm tòi, học hỏi của mỗi học sinh, sinh viên. Nhưng hiện nay việc học gần như không còn quan trọng đối với một số phần tử học sinh trong học đường. Họ đến trường chỉ nhằm mục đích đạt được thành tích viển vông, không thực tế. Hay đến trường với mong muốn gặp bạn bè để hội tụ chứ kh cần kiến thức. Và việc thi thực chất hiện nay cũng vậy. Thi cử nhưng vẫn có học sinh gian lận, kh trung thực với mong muốn đạt điểm cao.
- Tại sao lại xảy ra hiện tượng như vậy ?
+ Về việc học không thực chất:
++ Do ăn chơi, đua đòi bạn bè nên kh còn muốn đi học. Đi học chỉ mang mục đích "cho vui".
++ Do áp lực từ gia đình, nhà trường với mong muốn con em mình phải có thành tích, phải giỏi, phải học trong sự không thoải mái.
+Về việc thi không thực chất:
++Do lượng kiến thức của mỗi bộ môn trong chương trình giảng dạy là quá lớn làm cho học sinh kh thể tiếp thu đủ kiến thức nên phải gian lận trong thi cử.
++ Do ham muốn thành tích nên gian lận để đạt điểm cao.
- Biểu hiện: Xuất hiện nhiều trong mỗi lớp học, mỗi nhà trường, trong các kì thi đặc biệt là thi đại học hay tốt nghiệp THPT.
- Hậu quả:
+Hình thành nên nhân phẩm không tốt cho bao con người về đạo đức, lối sống.
+ Bao con người có những tấm bằng, chứng chỉ không đúng thực lực của bản thân
+ Cứ như vậy đất nước sẽ hiếm nhân tài vì những tấm chứng chỉ, bằng tốt nghiệp giả.
- Giải quyết: Cần đưa ra biện pháp thiết thực nhất. Mỗi người cha người mẹ cần quan tâm con em mình hơn. Cần có hướng giải quyết mới về phương pháp học tập . Xiết chặt hơn nữa các hành vi gian lận trong thi cử.
- Liên hệ thực tế, liên hệ chính bản thân
- Cảm xúc về luận điểm
Giới thiệu về luận điểm:
Nguyễn Thiếp đã đưa ra những nhận định hoàn toàn đúng đắn về việc học nhưng từ đó cũng có thể thấy rằng: Phương pháp học tập của học sinh, sinh viên hiện nay là chưa đúng đắn. Vẫn còn có hiện tượng gian lận trong thi cử, đến trường không còn mang mục đích học của học sinh, sinh viên hiện nay.
- Giải thích:
+ Học thực chất là sự tìm tòi, học hỏi của mỗi học sinh, sinh viên. Nhưng hiện nay việc học gần như không còn quan trọng đối với một số phần tử học sinh trong học đường. Họ đến trường chỉ nhằm mục đích đạt được thành tích viển vông, không thực tế. Hay đến trường với mong muốn gặp bạn bè để hội tụ chứ kh cần kiến thức. Và việc thi thực chất hiện nay cũng vậy. Thi cử nhưng vẫn có học sinh gian lận, kh trung thực với mong muốn đạt điểm cao.
- Tại sao lại xảy ra hiện tượng như vậy ?
+ Về việc học không thực chất:
++ Do ăn chơi, đua đòi bạn bè nên kh còn muốn đi học. Đi học chỉ mang mục đích "cho vui".
++ Do áp lực từ gia đình, nhà trường với mong muốn con em mình phải có thành tích, phải giỏi, phải học trong sự không thoải mái.
+Về việc thi không thực chất:
++Do lượng kiến thức của mỗi bộ môn trong chương trình giảng dạy là quá lớn làm cho học sinh kh thể tiếp thu đủ kiến thức nên phải gian lận trong thi cử.
++ Do ham muốn thành tích nên gian lận để đạt điểm cao.
- Biểu hiện: Xuất hiện nhiều trong mỗi lớp học, mỗi nhà trường, trong các kì thi đặc biệt là thi đại học hay tốt nghiệp THPT.
- Hậu quả:
+Hình thành nên nhân phẩm không tốt cho bao con người về đạo đức, lối sống.
+ Bao con người có những tấm bằng, chứng chỉ không đúng thực lực của bản thân
+ Cứ như vậy đất nước sẽ hiếm nhân tài vì những tấm chứng chỉ, bằng tốt nghiệp giả.
- Giải quyết: Cần đưa ra biện pháp thiết thực nhất. Mỗi người cha người mẹ cần quan tâm con em mình hơn. Cần có hướng giải quyết mới về phương pháp học tập . Xiết chặt hơn nữa các hành vi gian lận trong thi cử.
- Liên hệ thực tế, liên hệ chính bản thân
- Cảm xúc về luận điểm
Trong văn bản "Bàn luận về phép học" Nguyễn Thiếp đã đưa ra những phương pháp như thế nào?Hãy nêu nhận xét về phương pháp học đó
Trong văn bản "Bàn luận về phép học" Nguyễn Thiếp đã đưa ra những phương pháp như thế nào?Hãy nêu nhận xét về phương pháp học đó - câu hỏi 1824717
Trong văn bản "Bàn luận về phép học" Nguyễn Thiếp đã trình bày một trong những phép học đúng đắn là học rộng rồi tóm cho gọn, theo điều học mà làm. Em hãy viết bài văn nghị luận nêu suy nghĩ về mối quan hệ giữa "học" và "hành".
Ngày nay, những quan điểm của tác giả Nguyễn Thiếp thể hiện trong văn bản Bàn luận về phép học còn phù hợp không? Vì sao?
Như ta biết Bàn luận về phép học (Luận học pháp) chí là một đoạn trích trong một bài tấu đề cập đến nhiều vấn đề trong phép chấn hưng trị nước mà Nguyễn Thiếp gửi lên vua Quang Trung vào tháng 8 năm 1791. Vì chỉ là một yếu tố trong hệ thống, Bàn luận về phép học chỉ có ý nghĩa độc lập tương đối khi đặt vào chỉnh thể mà thôi. Tuy vậy, do cách suy nghĩ đúng đắn, do cách lập luận chặt chẽ, lời văn không trọng sự hoa mĩ khoa trương mà cụ thể xác thực, trích đoạn vẫn thể hiện được tư tưởng lớn về mục đích của con đường học vấn. Từ đó mà có một phép học thích hợp: khoa học và thiết thực dẫn đến những tài năng, có ích cho việc tu thân, góp phần tích cực vào sự hưng thịnh nước nhà. Tư tưởng lớn ấy thể hiện trong một đoạn văn nghị luận, tuy dung lượng lời nói không dài, nhưng vẫn triệt để tuân theo những nguyên tắc cơ bản của văn nghị luận.
Trong phần nêu vấn đề về sự học, tác giả không bàn đến việc vì sao phải học (nguyên tắc) mà nhấn vào một khía cạnh: học để làm gì ? (mục đích). Là bởi vì: "Ngọc không mài không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo". Nhưng đạo ấy là gì? Ấy là cái đích của sự học vậy. Theo tác giả thì "Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người". Đạo dạy người ta về những mối quan hệ: hẹp thì với bản thân, trong gia đình, rộng ra là ngoài xã hội. Mối quan hệ ấy trong khuôn khổ của xã hội phong kiến không nằm ngoài khái niệm "tam cương", "ngũ thường" quen thuộc. Tóm lại, học trước hết là học đạo làm người, học để "lập đức" cho mình, để "lập công" nghĩa là phải cống hiến tài năng cho xã hội. Đó là nền tảng của "chính học", là cơ sở của một quốc gia nước mạnh dân giàu, xã hội thái bình, thịnh trị. Cách nhìn của tác giả đoạn văn có tầm chiến lược dài lâu vì nó đụng đến sự an nguy của xã tắc (tức đất nước).
Trong phần giải quyết vấn đề, tác giả nêu lên hai luận điểm lớn để một mặt phê phán lối học sai mục đích hiện thời và một mặt khôi phục lại lối học chân chính mà nguyên tắc và mục tiêu xã hội dã xác định từ xưa.
Ở luận điểm thứ nhất, tác giả đã nêu lên ba ý: nền chính học đã bị thất truyền, biểu hiện của nó ở sự lệch lạc, tác hại của việc học ấy thật nghiêm trọng đến "nước mất nhà tan". Trong hệ thống lập luận chặt chẽ theo kết cấu: nhân (nguyên nhân) quả (kết quả), đoạn văn nhấn mạnh vào những biêu hiện thật đáng buồn về việc học ngày nay trên hai khía cạnh: người đi học và việc xã hội đánh giá người đỗ đạt (do học tập) ở cả đạo đức và tài năng. Vì mục đích của việc học của người đi học đã sai, cách đánh giá lại không đúng thì hậu quả sẽ dẫn đến thám hoạ khôn lường. Cái sai ở người đi học là không chuộng thực đức, thực tài, học không để "lập đức", "lập công" mà chỉ để "cầu danh lợi". Cái sai ở đăy thật cơ bản: sai về mục đích, nó biến sự học vốn là chân chính, vốn có ý nghĩa xã hội thiêng liêng thành một nấc thang danh vọng tầm thường, học chỉ là cho cá nhân minh, cho gia đình nhỏ bé của mình (vinh thân, phì gia). Mục đích học sai nên cách học cũng sai : không gia công dùi mài kinh sử để nắm lấy tri thức của khoa học, đạo lí của thánh hién, thay vào đó chỉ là một cách học "hình thức". Cách học hình thức là cách học máy móc, giáo điểu. Học văn (vãn bán) có thể thuộc văn mà không hiểu nghĩa của văn, chỉ cốt chcp sao cho đúng, thi sao cho đỗ mà thôi. Những người đỗ đạt bằng cách học kiểu ấy lại trở thành trụ cột trong bộ máy điều hành nhà nước thì nguy cơ của nó sẽ dẫn tới đâu ? Uy tín của họ, sự tồn tại của họ, do không có thực đức, thực tài đối với bé trên (như vua, chúa) chỉ còn biết luồn lọt, nịnh bợ. Họ là những nịnh thần. Còn về cách đánh giá, người có quyền uy, cầm cân nảy mực trên phạm vi cả nước là vua chúa, mà "chúa trọng nịnh thần", thì cái thói "hư danh", "hư vinh" mới mặc sức mà ngang nhiên tồn tại, thậm chí còn hống hách, lộng hành, kéo bè kéo cánh hãm hại lẫn nhau. Cái lô gích diễn ra tất yếu không tránh được là nhà tan, nước mất : "Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy". Sức hấp dẫn không cưỡng được từ cách lập luận ở chính trong lập luận bởi tính khoa học khách quan của nó.
Ở luận điểm thứ hai: phải khôi phục lại mục đích của nền "chính học", tác giả không nhắc lại mục đích của việc học nữa, vì nó đã được xác định từ đầu. Đây là hiện tượng chìm đi của quan điểm trong lập luận. Vì vậy, nếu người đọc vô tình sẽ có cảm giác như là hẫng hụt, thấy thiếu đi một cái gì lẽ ra phải có. Thay cho việc nhắc lại mục đích chân chính của việc học (vì không cần phải nhắc lại lần thứ hai), tác giả càn đến việc chấn hưng trên cơ sở ấy. Sự việc chấn hưng to lớn và cấp thiết được nhìn từ hai cấp độ : chiều rộng và chiều sâu. Về chiều rộng: cần mở mang thêm nhiều trường lớp, bằng nhiều hình thức, ở khắp mọi nơi, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người đi học. Quan điểm mà nay gọi là xã hội hoá giáo dục có hai cái lợi (mà tác giả không nói rõ ra): một là nâng cao được dân trí và hai là lựa chọn được nhân tài. Đó là cái nén của "chính học".
Điều quan trọng nhất trong luận điểm thứ hai này là chấn chỉnh, sửa sang phép học (phương pháp học tập). Nguyên tắc đầu tiên trong phép học là nguyên tắc vừa sức, học thích hợp với đối tượng, học từ thấp đến cao. Như thế cũng là theo hệ thống: "Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử". Trong quan điểm học theo hệ thống trên đây, tác giả chú ý đến cấp đầu tiên khi người học cắp sách đến trường. Phải chăng là tác giả với tầm nhìn xa rộng đã thấy ý nghĩa lớn lao, gốc rễ từ mảnh đất gieo hạt đầu tiên để từ đó cái cây đức, cây tài tươi tốt về sau ? Nguyên tắc thứ hai của phép học nói một cách gọn gàng, hàm súc "Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm", thực ra có hai ý nhỏ (mỗi ý nhỏ này có thể phát biểu thành những luận điểm lớn trong những trường hợp khác). Trước hết là học rộng, học nhiều nhưng phải biết chủ động: học cái gì nắm chắc được cái ấy. Muốn nắm chắc được tri thức, không có một cách nào khác hơn là tóm tắt được nó, nghĩa là tinh lọc được nó, chọn lấy cái chính và biến nó thành nhận thức, thành trí tuệ của riêng mình. Ở đây, tóm tắt không có nghĩa chí là nít ngắn, mà chính là lựa chọn. Muốn lựa chọn phái có một quan điểm riêng. Ấy là thực học. Nhưng đó mới là một nửa ý nghĩa của thao tác "tóm lược cho gọn". Nửa ý nghĩa thứ hai của quy trình nhận thức, ở sự thu hoạch tri thức cho bản thân còn quan trọng hơn : "học" để mà "hành", "học đổ làm": đây mới là cái đích cuối cùng của việc học. Học nhiều mà chỉ thuộc lòng sách vở, bị động vào sách vở thì dù học đến đâu cũng chỉ là những "con mọt sách" làm sao có thể ứng dụng vào đời sống, phỏng có ích lợi cho ai ? Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đã thấm thìa rút ra từ sự học một bài học để dạy dỗ con mình: "Bể học tràn lan là đáng ngại" (Ngày xuân dạy con), phải chăng cũng là sự đổng quan niệm với tác giả đoạn vãn "Bàn luận về phép học" mà chúng ta đang phân tích ở đây ? Học như phép học mà Nguyễn Thiếp đề ra mới là có ích. Điều khẳng định này ở dạng vừa hi vọng vừa phân vân : "Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công". Chính là xuất phát từ một ước mơ tha thiết và dù tha thiết mà sự nghiệp không chắc đã thành, bởi sự học, phcp học tuy nói vậy nhưng cũng khó lắm thay ! Sự chân thành là phía chủ quan, còn kết quả là thuộc phía khách quan ngoài ý muốn, mà ý muốn ấy cũng là vừa mới bắt đầu. Mặc dầu vậy, dù tâm trạng không ít băn khoãn, mà vẫn rất nhiều tin tưởng. Và kết quả mà tác giả đợi chờ là cái hạt gieo xuống sẽ thành cây, sự học sẽ gặt hái một mùa quả ngọt : "Đạo học thành thì người tốt nhiều ; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị". Kết quả này hoàn toàn đối lộp với mục đích học và phép học theo lối "cầu danh lợi" ở trên.
Kế sách mà La Sơn Phu Tử hiến cho vua Quang Trung thật là những lời tâm huyết xuất phát từ quyền lợi của quốc gia, trong sự nghiệp an dân trị quốc. Tầm nhìn ấy có chiều rộng, chiều sâu vể một chiến lược lâu dài không phải ngày một ngày hai mà làm được. Vua Quang Trung xem tác giả như một người tri âm mới triều kiến vào Phú Xuân bàn quốc sự. Rất tiếc là thời đại mà Quang Trung mở ra chẳng được bao lâu, do đó chương trình chấn hưng hãy còn dang dở. Dù sao, quan điểm của Nguyễn Thiếp cũng vẫn là những viên gạch vững chắc đầu tiên trong nền tảng lí luận của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước nhà
Bàn về phép học là tác phẩm ra đời năm 1791 những cho đến nay những quan điểm của tác giả Nguyễn Thiếp đưa ra vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay, chúng ta cũng cần nhận thức được rõ mục đích, vai trò của việc học đó là để làm người có đạo đức, vận dụng tri thức vào cuộc sống để góp phần xây dựng, phát triển đất nước chứ không phải để cầu danh lợi. Bằng chứng là những người học chỉ để mưu cầu danh lợi sẽ không có chỗ đứng vững vàng trong xã hội, sớm bị loại bỏ. Bên cạnh đó, phương pháp học đi đôi với hành và muốn học tốt phải học sâu, nắm được cốt lõi của vấn đề. Thực tế, nếu như học chỉ nắm được lý thuyết suông và không biết vận dụng thì việc học trở nên vô nghĩa và ngược lại, thực hành mà không có kiến thức nền tảng thì khó có thể thành công. Học càng sâu, nghiên cứu càng kỹ sẽ giúp chúng ta đạt được thành tựu trong học tập và cuộc sống.
bài học Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG (sách ngữ văn tập 2 lớp 7)
a) theo tác giả, nguồn gốc cốt yếu của văn chương là gì? việc đua câu chuyện về một thi sĩ ấn độ thể hiện dụng ý gì của tác giả ?
b) Trong văn bản tác giả còn đề cập tới công dụng của văn chương . Công dụng đó là gì ?
c) Tác giả đã lập luận như thế nào để thể hiện quan điểm về nguồn gốc , công dụng của văn chương? Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của văn bản ?
a. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương theo Hoài Thanh là xuất phát từ tình yêu thương con người, sau đó mở rộng ra là lòng thương muôn vật, muôn loài. Việc đưa câu chuyện về một thi sĩ ấn độ thể hiện dụng ý của tác giả đó là khẳng định mối quan hệ giữa văn chương, nghệ thuật và đời sống. Văn chương được khơi gợi từ đời sống và vẻ đẹp chân thực giản dị của cuộc sống là nguồn cảm hứng lớn đối với thi nhân.
b. Tác giả còn đề cập tới công dụng của văn chương đó là: Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, gợi cho ta những tình cảm ta sẵn có. Văn chương vừa có tác dụng khơi gợi, vừa có tác dụng cảm hóa, làm thay đổi con người, khiến con người sống nhân văn, nhân ái, chan hòa hơn.
c. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng sau đó đưa ra kết luận về nguồn gốc, công dụng của văn chương. Cách lập luận ấy vừa chặt chẽ, vừa thuyết phục người đọc. Khiến văn bản hấp dẫn và gây ấn tượng được với độc giả.
nhận xét thái độ tình cảm của tác giả thể hiện trong đoạn trích "bàn về phép học"
Quan điểm của Tác giả:
- Chính sách:
+, Mở thêm trường: "Con cháu trường học của phủ, huyện, các trường tư".
+, Mở rộng thành phần người học: "Con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở thị trấn cựu triều".
+, Tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học: "Tùy đâu tiện đấy mà đi học".
- Phương pháp học tập:
+, Bắt đầu từ kiến thức cơ bản đến nâng cao: "Lúc đấu học để bồi lấy gốc, tuần tự theo ngũ kinh, chư sử".
+, Học rộng nghĩ sâu nhưng phải biết rút ra những điều cơ bản cốt yếu nhất: "Học rồi tóm lược cho gọn".
+, Học kết hợp với hành: "Theo điều học mà làm".
=> Quan điểm tiến bộ, không chỉ có ý nghĩa đương thời, mà luôn được áp dụng tới ngày nay.