trong bai cay tre viet nam phep nhan hoa ' bong tre au yen lang ban xom thon " co tac dung gi
Tim cac hinh anh nhan hoa co trong bai cay tre Viet Nam cua Thep Moi
Neu tac dung cua 1 hinh anh nhan hoa
Giup minh voi nhe chieu nay thi roi
tác dụng 1 phép nhân hóa: tre ăn ở với người đời đời ,kiếp kiếp
-góp phần tạo cho câu văn thêm sinh động ,hấp dẫn.
-cho thấy sự gắn bó sâu đậm giữa tre với ngừi dân vn
1 phép nhân hóa:Tre giữ nhà,giữ làng,giữ nước,giữ mái nhà tranh,giữ đồng lúa chín
Tác dụng:
-Thể hiện rõ vai trò của tre trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Thể hiện sự tinh tế,làm câu văn thêm sinh động,làm người đọc hiểu được vai trò của tre trong đời sống của con người.
tim phep nhan hoa duoc su dung trong bai cay tre viet nam
giup minh voi nha ai dung va nhanh minh tich
Phép nhân hoá đuoc su dụng trong bài cây tre VN la
+ Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc
nmmjmfjf fjfjm fjmnhgg jasdfghjklqwertyuiop12345678910 dcghcbhvbjtfgvj
Nam 1972, nha tho TRAN DANG KHOA (14 tuoi ) co bai tho 4 cau , nhan de CON DONG nhu sau Con giong cuon cuon giua lang Bo ao lo . Goc cay bang cung nghieng Qua bong chet chang chiu chim Ao con ma song noi len bac dau . a.Co nguoi nhan xet : bai tho mang nhung net rat gan gui voi lang que viet nam . Theo em co dung khong ? Vi sao? b.Neu biet rang nam 1972 la nam giac mi nem bom , ban pha mien bac ac liet , thi bai tho con co y nghia sau sac nhu the nao ? Phan tich tac dung dac luc cua nghe thuat nhan hoa trong bai tho . c.Song va hoc tap trong khung canh hoa binh , doc bai tho em co cam xuc gi ? " lam on nhanh gium minh ti nhe , cam on cac ban nhieu "
Bai 2: Tim chu ngu, vi ngu cho biet chung co cau tao nhu the nao?
a) Trong tranh, mot chu be dang ngoi nhin ra cua so, noi bau troi trong xanh
b) Trang si mac ao giap, cam roi, nhay len minh ngua
c) Bong tre trum len au yem lang, ban, xom, thon
d) Cho Nam Can nam sat ben bo song, on ao, dong vui, tap nap
e) Tu trong hang, hai nguoi dan ong lao ra
g) Giua bien lua vang, nhung chiec non trang nhap nho
h) Ngang troi, mot bong chim vut qua
Nhớ viết dấu nhé !
Chủ ngữ : in đậm
Vị ngữ : in đậm + nghiên
a. Trong tranh, một chú bé đang ngồi nhìn ra cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh
b. Tráng sĩ mặc áo giáo, cầm roi, nhảy lên mình ngựa
c. Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn
d. Chợ Nam Căn nằm sát bên bờ sông, ồn ào, đông vui, tấp nập
e. Từ trong hang, hai người đàn ông lao ra
g. Giua biển lúa vàng, những chiếc nón trắng nhấp nhô
h. Ngang trời, một bóng chim vụt qua
Bai 2: Tim chu ngu, vi ngu cho biet chung co cau tao nhu the nao?
a) Trong tranh, mot chu be dang ngoi nhin ra cua so, noi bau troi trong xanh
TN:Trong tranh
CN:Một chú bé
VN:đang ngồi nhìn ra cửa sổ......
->Câu đơn
b) Trang si mac ao giap, cam roi, nhay len minh ngua
CN:Tráng sĩ
VN:mặc áo giáp......
->Câu đơn
c) Bong tre trum len au yem lang, ban, xom, thon
CN:Bóng tre
VN:trùm lên âu yếm.......
->Câu đơn
d) Cho Nam Can nam sat ben bo song, on ao, dong vui, tap nap
CN:Chợ Năm Căn
VN:nằm sát......
->Câu đơn
e) Tu trong hang, hai nguoi dan ong lao ra
TN:Từ trong hang
CN:Hai ng đàn ông
VN:lao ra
->Câu đơn
g) Giua bien lua vang, nhung chiec non trang nhap nho
TN:Giua bien lua vang
CN:Những chiec non trắng
VN:nhấp nhô
->Caau đơn
h) Ngang troi, mot bong chim vut qua
TN:Ngang troi
CN mot bong chim
CN:vut qua
->Câu đơn
xac dinh thanh phan cau cua cau van sau va cho biet bai van thieu thanh phan gi
'' ngay cuoi lang tren manh dat bang phamg va lom dom nhung khom hoa lu tre con xom Bac cung xom Nam dang da bong ''
Mình gõ như đúng đề bài bạn gõ trên máy.
Trạng ngữ:"ngay cuoi lang tren manh dat bang phamg va lom dom nhung khom hoa"
Chủ ngữ:"lu tre con xom bac cung xom Nam"
Vị ngữ:"dang da bong"
Tập gõ Vietkey đi.Mệt.
chữ khó dịch quá, viết có dấu đc không vậy
mình chỉnh lại tí :
ngày cuối lặng trên mảnh đất bằng phẳng và lóm đóm những khóm hoa , lũ trẻ con xóm Bắc cùng xóm Nam đang đang đá bóng
vế 1:ngày cuối lặng trên mảnh đất bằng phẳng và lóm đóm những khóm hoa
chủ ngữ : ngày cuối
vị ngữ : lặng trên mảnh đất bằng phẳng và lóm đoms những khóm hoa
vế 2 : lũ trẻ con xóm Bắc và xóm Nam đang đá bóng
chủ ngữ : lũ trẻ con
vị ngữ : đang đá bóng
neu cam nhan ve hinh anh cay tre trong lao dong , chien dau qua van ban "cay tre viet nam"
Cây tre từ lâu đã là một biểu tượng của dân tộc Việt Nam, nó thể hiện tinh thần đoàn kết, sự cần cù chịu khó trong lao động và sự kiên cường bất khuất trong khó khăn gian khổ. Cây tre là hình ảnh của con người Việt Nam trên mọi chặng đường lịch sử, phẩm chất tốt đẹp của tre cũng chính là phẩm chất con người Việt Nam yêu nước, chí khí của tre là chí khí cách mạng của dân tộc, tâm hồn của tre là tâm hồn của triệu triệu đồng bào… Hình tượng cây tre trong tác phẩm Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới thật đẹp, thật đáng tự hào.
Nhà văn đã giới thiệu cây tre như là hiện thân của người dân Việt. Tác giả đã so sánh cây tre với muôn ngàn cây lá khác nhau: cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Sự so sánh ấy nhằm ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người. Tre bao bọc xóm làng, tre có mặt khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có nứa tre làm bạn. Tre được tác giả nhân hóa trở nên gần gũi, yêu thương với con người.
cam nghi ve loai cay em yeu(ko chep mang, ko van mau) , dung viet bai hoa phuong, cay bang, cay tre nha
minh cau cuu cac ban, giup minh vs, mai minh phai viet bai roi
“Phượng không thơm, phượng chưa hẳn đã là đẹp, nhưng phượng đỏ và phượng nhiều, phượng có một linh hồn sắc sảo mênh mang. Phượng không phải là một đoá, không phải vài cành; phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực.... Màu hoa phượng chói lói như sắc máu người.... Nhưng hoa càng đỏ, lá lại càng xanh. Vừa buồn mà lại vừa vui, mới thực là nỗi niềm bông phượng. Một làn gió hẩy tới; từng đợt sóng rào rào trên biển hoa.... Người ta trồng phượng ngoài thành và trong thành; và người ta hay trồng phượng trong các sân trường... Nhưng dù trồng ở đâu, cũng chỉ có bọn học sinh hiểu hoa phượng nhất. Hoa phượng là hoa-học-trò. Còn ai quen với phượng cho bằng bọn cắp sách đến trường một ngày hai buổi ! Còn ai có linh hồn tươi thắm để quan hoài cùng với phượng thắm tươi ?”
Mấy câu của Xuân Diệu không hiểu vì sao cứ ám ảnh tôi mỗi lần tôi thấy bóng hình hoa phượng. Tôi còn nhớ trong tủ sách cũ của anh chị tôi, tôi thường ghiền gẫm cuốn Trường ca, xuất bản vào khoảng năm 1945. Đoạn trích dẫn nằm trong chương “Hoa học trò”, phần cuối của sách. Trong chương này, trừ một đôi chữ đã cũ với năm tháng ; những nhận xét của nhà thơ thường gần gũi và đượm chất thơ, có sức quyến rũ người đọc. Khó kiếm một tác phẩm viết về phượng với những ý tưởng cô đọng như thế.
Kể từ khi sách ra đời đã hơn 60 năm, hôm nay người viết có cảm tưởng gì khi đọc lại mấy dòng trên ?
Nói tới “hoa phượng” tưởng cần biết sơ về hoa phượng ta. Phượng ta, cây không lớn, có ở Việt Nam hình như từ lâu, ít ra so với “hoa phượng” tức “hoa phượng tây”.
Từ điển tiếng Việt (chủ biên Hoàng Phê) ghi rằng cây phượng ta, dùng như chữ “kim phượng”, là loại “cây nhỡ cùng họ với vang, muồng, hoa màu đỏ hay vàng, có nhị mọc thò ra ngoài như đuôi phượng, thường trồng làm cảnh”. “Phượng vĩ” trước đây dùng để chỉ cây phượng ta, nhưng vì từ mấy chục năm nay cố đô Huế đã biến thành ‘thủ đô của phượng’, “phượng vĩ” đã trở thành “hoa phượng”. Dĩ nhiên một khi đã có “hoa phượng” rồi thì chẳng ai truy nguyên gốc gác của nó là “hoa phượng tây” làm gì !
Phượng, cũng theo từ điển trên, là “loài cây to cùng họ với cây vang, lá kép lông chim, hoa mọc thành chùm, màu đỏ, nở vào đầu hè, thường trồng lấy bóng mát. Mùa hoa phượng”. Tiếng Anh gọi phượng là Royal Poinciana, hay Flamboyant có gốc của tiếng Pháp cổ. Tên khoa học là Delonix Regia. Thân cây cao chừng trên 10 m và chỉ mất vài năm để ra hoa. Phượng có xuất xứ từ Madagascar, trước đây thuộc Pháp. Ngay trong từ điển người ta cũng không để, hay là không ý thức, đến gốc gác cây phượng nguyên ở đâu – huống hồ là người thường ! Từ Madagascar đến Việt Nam có bao xa, dẫu thuở ấy là thời Pháp thuộc ...
Khi viết ngang mấy dòng trên, tôi chợt nghĩ thi sĩ Xuân Diệu có lẽ cũng vô tình cảm thấy cây phượng có một lịch sử dài như vô tận. Với nhà thơ, cây phượng tuồng như không có điểm khởi đầu. Nhưng Xuân Diệu và chúng ta nào đâu có dè rằng cây phượng ở Việt Nam chỉ có 40, 50 năm lịch sử là nhiều nhất ! Đó là tính từ ngày cuốn Trường ca ra đời. Phượng làm quen với đất thuộc địa mới ở Đông Nam Á của người Pháp vào cuối thế kỷ 19 -- đầu thế kỷ 20 qua mảnh đất Việt Nam. Tôi lật những sách như từ điển Huỳnh Tịnh Của ra năm 1896 hoặc Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 để kiếm một đôi điều nói về cây phượng vốn là “cây phượng tây” này, nhưng các cuốn đó tuyệt nhiên không đề cập gì cả. Ví dụ từ điển Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của chỉ có từ “phụng” với nghĩa là “Chúa các loài cầm, lông năm sắc, ở trong số tứ linh”. Từ “Hoa phụng” có trong từ điển là cây có lá “dùng làm thuốc tẩy trường”, nhưng thuộc “thứ cây nhỏ” – như vậy chắc chắn là khác với cây phượng mà ta đang kiếm rồi. Chúng ta có thể phỏng đoán cuối thế kỷ 19, cây phượng chưa có tại Việt Nam, hay nếu có chăng nữa thì cũng rất ít. Điều đó cũng dễ hiểu, vì Việt Nam là nước Đông Nam Á trở thành thuộc địa Pháp trước tiên thì Pháp phải mất thì giờ để tìm hiểu con người cũng như cây cỏ! Cuốn Việt Nam từ điển (Khai Trí Tiến Đức) thì sao ? Theo sách này, “phụng” có khi đọc là “phượng”, nhưng nghĩa thì chẳng khác gì Đại Nam quốc âm tự vị. Tóm lại, cho đến đầu năm 1930 những cuốn từ điển ở Việt Nam vẫn chưa có từ “phượng” theo nghĩa “cây phượng” mà chúng ta đang tìm.
Nhưng từ nửa sau thập niên 1930 hoa phượng “đột nhiên” xuất hiện rầm rộ trong thơ văn. Vì sao vậy ? Phải chăng có đợt trồng phượng rộng rãi ở Việt Nam trước năm 1935 ? Hay có nhân vật nào của chính quyền thuộc địa thấy cây phượng thích hợp với khí hậu Việt Nam và đã trồng thử trong khoảng thời gian đó ? Vân vân và vân vân.
Chúng ta thấy rằng những câu hỏi như trên vẫn còn thiếu sót, nếu không nói thêm rằng đó cũng là khoảng thời gian mà vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, sự vùng dậy của tiếng Việt, cùng với các vận động quần chúng đã ảnh hưởng, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến sự bành trướng trên nhiều mặt trong xã hội, kể cả sự lan rộng của bóng hình cây phượng trong tuổi trẻ Việt Nam. “Học trò” từ đây làm quen với những gốc phượng trong sân trường. Một khi đã quen rồi thì sự gắn bó với hoa phượng cũng đi nhanh gấp bội : từ cây “phượng tây” hoặc cây “phượng lai” phút chốc đến “hoa phượng” rồi đến hoa-học-trò đâu có bao xa ! Trái “phượng tây” to mấy lần trái bồ kết cũng trở thành trái phượng hiền lành như muôn ngàn cây trái khác, khi viên đá hay mảnh gạch của mấy anh học trò tìm cách khẻ mãi mới ra hột phượng xanh rờn !
Một trong những thi sĩ có thơ nói về phượng sớm nhất chính là Hàn Mặc Tử. Năm 1937, thi sĩ đã nói lên “màu máu” của hoa phượng trong bài “Những giọt lệ” của tập Đau thương. Ở đây ta sẽ không bàn đến sự thiên phú của nhà thơ hoặc tính cách siêu nhiên (“bỏ dưới trời sâu”) để chỉ xin nói về màu huyết của “bông phượng” :
Tôi vẫn ngồi đây hay ở đâu ?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu ?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ?
“Màu hoa phượng chói lói như sắc máu người” (Xuân Diệu) đã được nhắc lại trong một số bài thơ của các tác giả qua sự gắn bó của hoa phượng với dải đất Việt Nam. Các chữ “sắc hây hây” và “màu lửa” trong trường hợp này, không hiểu sao cũng làm gợi nhớ đến sắc máu người :
Từ cỏi lòng trai nở dẫy đầy
Một trời phượng đỏ sắc hây hây,
Nắng ơi, xin rực thêm màu lửa
Và gió chao nhè nhẹ nhánh sây.
V.B., 1990
Màu hồng của hoa phượng là màu của tương lai rực rỡ. Có bạn chắc còn nhớ bài hát khoảng 1954 của nhạc sĩ Hùng Lân :
Trời hồng hồng, sáng trong trong,
Ngàn phượng rung nắng ngoài song ...
Song màu đỏ của hoa phượng cũng mang lại không khí đượm buồn, một nỗi buồn man mác, của cảnh xa trường qua mấy tháng Hè :
Phượng đem duyên thắm cho hiu hạ,
Nhuộm đỏ lòng tôi sắc biệt ly,
Khi trường đóng cửa xa chân bước,
Không hiểu rồi tôi sẽ nhớ gì ?
Bài thơ trên tôi thuộc từ hồi còn bé, nhưng tôi không có dịp hỏi tên tác giả trước khi anh tôi vội thành người thiên cổ. Bạn nào vui lòng chỉ giáo tôi sẽ xin đội ơn vô cùng.
Ở Huế, cạnh chùa Thiên Mụ có mấy gốc phượng. Ngay từ cuối những năm 1930, những gốc phượng đâu đây đã làm chứng nhân cho những buổi “gặp nhau” rất vô tư, nhưng đẹp và lãng mạn. Thi sĩ Nam Trân, trong “Cô gái Kim Luông” (Đẹp và Thơ, 1939), đã ghi lại mẩu chuyện đó như sau :
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo.
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo.
Chẳng biết tự bao giờ, cây phượng đã trở thành người bạn thân thiết của em. Thật hạnh phúc biết bao khi tuổi học trò gắn liền với hình ảnh cánh hoa thắm tươi như màu máu con tim..
o moi doan tim it nhat mot cau van noi len dac diem cua cay tre ;một cau van danh gia nhan xet ve cay tre . Từ do cho biet trong bai van tac gia da su dung ket hpo nhung phuong thuc bieu dat nao
tim phep nhan hoa trong cac doan van sau.cho biet chung thuoc kieu nhan hoa nao .neu tac dung cua chung.
a)CHI COC THOAT NGHE TIENG HAT TU TRONG DAT VANG VANG LEN,ko hieu nhu the nao . giat nay hai dau canh , muon bay .den khi dinh than lai chi moi tron tron mat, giuong canh len , nhu sap danh nhau.chi lo do ve phia cua hang toi:hoi
b)moi chiec la rung co mot linh hon rieng , mot tam tinh rieng,mot cam giac rieng.co chiec la nhe nhang khoan khoaidua gion, mua may voi lan gio thoang,nhu tham bao rang su dep cua van vat chi o hien tai .co chiec la nhu so hai nganngai rut re, roi nhu gan toi mat dat , con cat minh muon bay tro lai canh . co chiec la day au yem roi bam vao mot bong hoa thom ;hay den mon tron mot ngon co xanh mem mai .
c)gay tre, chong tre chong lai sat thep cua quan thu . tre xung phong vao xe tang, dai bac. tre giu lang , giu nuoc, giu mai nha tranh .giua dong lua chin. tre hi sinh de bao ve con nguoi . tre, anh hunh lao dong. tre , anh hung chien dau!
mn tl dum em voi em dang can gap mn tl dum em voi a em se tick va like cho a em cam on
mn tl dum em voi a em dang can gap mn lam dum em voi ai lam duoc em k cho