*Brexit:
Brexit là gì và Brexit có lợi hay hại
Đây là từ viết tắt từ hai từ để chỉ việc Anh quốc (Britain) rời khỏi EU (Exit), tương tự như Grexit được dùng để nói về khả năng Hy Lạp rời khỏi EU trước đây.
Chính vì thế, ở nước Anh những người bỏ phiếu rời khỏi EU sẽ thuộc phe Brexit và số còn lại sẽ là phe đồng tình -Remain. Để quyết định “vận mệnh” của chính mình, nước Anh tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 23/6 vừa qua.
Một số thắc mắc được đưa ra trong sự kiện lịch sử này:
Vì sao phải tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý?
Theo báo chí nước ngoài đưa tin, Thủ tướng Anh David Cameron đã hứa hẹn sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý nếu ông giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử năm 2015, đáp lại những lời kêu gọi ngày càng nhiều từ Đảng Bảo thủ của ông và Đảng Độc lập, họ vốn không đồng ý với việc Anh tham gia EU kể từ năm 1975, thời đó mọi người đã bỏ phiếu để Anh tiếp tục ở lại EU trong một cuộc trưng cầu dân ý. Kể từ đó trở đi EU đã thay đổi rất nhiều, người dân Anh bị kiểm soát nhiều hơn, những người không muốn Anh ở lại EU cho biết như vậy.
Ông Cameron nói: “Đã đến lúc người dân Anh được nói lên tiếng nói của mình. Đã đến lúc phải giải quyết vấn đề Châu Âu này trong chính trường nước Anh. ” tờ BBC dẫn lời.
(Một cuộc trưng cầu dân ý về cơ bản là một cuộc bỏ phiếu trong đó mọi người (hay hầu hết tất cả mọi người) ở độ tuổi được đi bầu cử có thể tham gia, thường đưa ra câu trả lời “Có” hoặc “Không” cho một vấn đề nào đó. Bên nào nhận được quá bán số phiếu bầu thì được xem là giành chiến thắng).
Brexit là gì và Brexit có lợi hay hại. Nước Anh bước vào giai đoạn lịch sử mớiLiên minh châu Âu là gì?
Liên minh châu Âu – thường gọi là EU – là một tổ chức hợp tác kinh tế chính trị gồm có 28 quốc gia châu Âu. Tổ chức này bắt đầu hình thành sau Đệ Nhị Thế Chiến nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế, với ý tưởng là các quốc gia giao thương với nhau thì có thể dễ dàng tránh được chiến tranh với nhau hơn.
Tổ chức này kể từ đó đã phát triển trở thành một “thị trường riêng” cho phép hàng hoá và người dân qua lại, về cơ bản thì giống như các quốc gia thành viên nằm trong một quốc gia lớn vậy. Quốc gia ấy có đồng tiền riêng, đồng euro, đồng tiền được 19 nước thành viên sử dụng, có nghị viện và hiện đặt ra các luật lệ trong nhiều lĩnh vực – trong đó có môi trường, giao thông, quyền người tiêu dùng và thậm chí cả những thứ như phí điện thoại di động.
Ai muốn Anh rời EU?
Theo các cuộc thăm dò mới nhất, công chúng Anh bị chia rẽ khá đồng đều. Đảng Độc lập Anh, vốn đã giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử châu Âu gần đây nhất, và nhận được gần 4 triệu phiếu bầu – 13% trong tổng số phiếu – trong cuộc tổng tuyển cử hồi tháng 5, đã phát động các chiến dịch vận động để nước Anh rời khỏi EU. Khoảng một nửa thành viên Đảng Bảo thủ, bao gồm 5 thành viên nội các, một vài Nghị viên Công đảng và Đảng Hợp nhất Dân chủ cũng ủng hộ việc rời khỏi EU.
Vì sao họ muốn Anh rời EU?
Họ cho rằng Anh đang bị EU kéo tụt lại, mà theo họ thì EU áp đặt quá nhiều luật lệ kinh doanh và một năm thu hàng tỷ bảng Anh tiền phí thành viên nhưng trả lại rất ít.
Họ cũng muốn Anh được quyền kiểm soát đầy đủ biên giới của mình và giảm số người đến sống và/hoặc làm việc tại Anh. Một trong những nguyên tắc chính của EU là “đi lại tự do”, tức là không cần thị thực cũng đi đến và sống được ở một quốc gia EU khác. Họ cũng phản đối ý tưởng “liên minh gần gũi hơn bao giờ hết” và họ coi đó là động thái để thành lập ” Hiệp chúng quốc châu Âu “.
Brexit là gì và Brexit có lợi hay hại? Ai muốn Anh ở lại EU?Thủ tướng Anh David Cameron muốn Anh ở lại EU. 16 thành viên nội các của ông ta cũng ủng hộ việc ở lại. Đảng Bảo thủ tuyên bố trung lập trong chiến dịch này – nhưng phe ủng hộ còn có Công đảng, Đảng Quốc gia Scotland (SNP) , Plaid Cymru (Đảng xứ Wales), và Dân chủ Tự do. Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cũng muốn Anh tiếp tục ở lại EU, các quốc gia châu Âu như Pháp và Mỹ cũng muốn như vậy.
Vì sao họ muốn Anh ở lại?
Những người ủng hộ Anh ở lại EU nói Anh sẽ nhận được nhiều hỗ trợ từ liên minh này – bán hàng qua các nước EU dễ dàng hơn và, theo họ biện luận, dòng người nhập cư, phần lớn là người trẻ và khao khát làm việc, sẽ tiếp sức cho phát triển kinh tế và giúp thanh toán các dịch vụ công ích. Họ cũng cho rằng vị thế của Anh trên thế giới sẽ bị thiệt hại nếu rời EU và là một phần của câu lạc bộ 28 quốc gia thì an toàn hơn là đứng một mình.
Ai được bỏ phiếu?
Các công dân Anh, Ireland và công dân các nước thuộc khối Thịnh vượng Chung đủ 18 tuổi trở lên hiện đang thường trú tại Anh. Bên cạnh đó là các công dân Anh sống ở nước ngoài có đăng ký bầu cử tại Anh trong vòng 15 năm qua. Công dân từ các nước EU, trừ Ireland, Malta và Cyprus, không được phép bỏ phiếu.
Theo số liệu mới nhất từ Ủy ban Bầu cử, gần 46,5 triệu cử tri đã đăng ký tham gia trưng cầu.
Thủ tướng Anh David CameronSự chia rẽ sâu sắc
Các cuộc thăm dò ý kiến mới nhất cho thấy, người Anh tiếp tục chia rẽ sâu sắc về việc ở lại hay rời khỏi EU. UKIP vận động để Anh rời khỏi EU và chủ trương này được một số nghị sĩ thuộc các đảng Bảo thủ, Công đảng, Dân chủ Tự do ủng hộ.
Những người muốn Anh tiếp tục là thành viên EU, trong đó có Thủ tướng Anh David Cameroon, cho rằng tư cách thành viên liên minh sẽ mang lại lợi ích lớn cho đất nước, đặc biệt là về an ninh sẽ tốt hơn nếu ở trong một tập thể.
Các điểm bỏ phiếu mở cửa từ 6h đến 21h, giờ GMT. Hoạt động kiểm phiếu được tiến hành ngay sau đó. Có tổng cộng 382 điểm kiểm phiếu và mỗi điểm công bố kết quả của mình. Đợt công bố đầu tiên dự kiến sẽ vào sớm ngày 24/6, sau lúc 1h.
Kết quả chính thức sẽ được Trưởng ban Kiểm phiếu xác nhận và kết quả cuối cùng được công bố tại Tòa thị chính Manchester.
Trong khi nước Anh đang sôi sục đi hay ở lại EU, nhiều tờ báo trên thế giới cũng đưa ra nhận định trước thời khắc công bố kết quả trưng cầu cuối cùng.
Với kết quả từ 103 trên tổng số 382 khu vực kiểm phiếu, 49,4% cử tri bỏ phiếu ủng hộ Anh rời khỏi EU (Brexit), số người chọn ở lại (Remain) tạm dẫn đầu với 50,6%.
Trước khi kết quả cuối cùng được đưa ra, các cuộc thăm dò dư luận mới đây đều theo hướng giữ nguyên vai trò thành viên của Anh.
Tâm trạng trái ngược của người dân Anh trước thời khắc lịch sửCuộc khảo sát của trang YouGov cho thấy, Remain dẫn đầu với chênh lệch phiếu bầu 52 và 48%. Trong khi, cuộc thăm dò dư luận của Ipsos-MORI thực hiện vào 22 – 23/6 cũng ưu thế thuộc về Remain với tỷ lệ 54 – 46%. Thậm chí, kết quả này khiến hai nhà vận động phản đối EU có tiếng cũng thừa nhận nhiều khả năng họ sẽ thất bại.
Ông Nigel Farage, người đứng đầu Đảng Độc lập Vương quốc Anh và người có ảnh hưởng hàng đầu trong việc Anh rời khỏi EU, chia sẻ trên Sky News: “Đó là một chiến dịch trưng cầu bất thường, cử tri đi bầu có vẻ là đặc biệt cao và nhiều khả năng sẽ ở lại”.
Theo ông, những tiên đoán dựa trên thông tin từ một số bạn bè trong các thị trường tài chính đã thực hiện một số điểm bỏ phiếu lớn.
Bộ trưởng phụ trách các vấn đề Bắc Ireland Theresa Villiers, cũng vận động để Anh rời khỏi EU, nói trên Sky News, bản năng mách bảo bên ủng hộ ở lại sẽ thắng.
Ông Jeremy Cook, Kinh tế trưởng công ty trao đổi ngoại hối World First (London), cũng nhận định ưu thế thuộc về Remain.
Mới đây, Thủ tướng Anh David Cameron đăng trên Facebook: “Cảm ơn tất cả mọi người đã bình chọn, để giữ nước Anh mạnh mẽ hơn, an toàn hơn và tốt hơn ở châu Âu – và gửi đến hàng ngàn nhà vận động Remain trên toàn nước Anh”.
Trong khi đó, nhiều chính khách vẫn giữ nguyên quan điểm ủng hộ Brexit. John Mann, một trong số ít các nghị sĩ Công đảng bỏ phiếu cho Brexit, nhấn mạnh trên BBC, cử tri Công đảng dứt khoát lựa chọn rời khỏi Liên minh châu Âu.
Người dân nước Anh lựa chọn rời khỏi EU
Vào chiều ngày 24/6, kết quả trưng cầu chính thức được công bố.
Người dân Anh chọn rời khỏi Liên minh châu Âu (EU) với tỷ lệ 51,9% ủng hộ, 48,1% phản đối trong cuộc trưng cầu dân ý lịch sử, theo BBC.
Người dân ở London và Scotland đều nghiêng về “ở lại” EU nhưng lợi thế này đã mất đi do tỷ lệ ủng hộ thấp ở khu vực phía bắc Anh.
Kết quả bỏ phiếu, nước Anh chính thức rời khỏi EU với 52,71% đồng thuậnPhó thủ tướng Đức kiêm Bộ trưởng Kinh tế Sigmar Gabriel hôm nay mô tả cuộc trưng cầu dân ý ở Anh là “một ngày tồi tệ với châu Âu”. Cựu thủ tướng Phần Lan Alexander Stubb gọi đây là “cơn ác mộng” mà khi tỉnh dậy, các lãnh đạo châu Âu sẽ bị sốc trước kết quả làm rung chuyển liên minh 28 nước.
Geert Wilders, lãnh đạo phe phản đối người nhập cư ở Hà Lan, hôm nay kêu gọi nước này tổ chức trưng cầu dân ý giống Anh. “Chúng tôi muốn tự chịu trách nhiệm về đất nước, đồng tiền, biên giới và chính sách nhập cư của riêng chúng tôi”, ông cho biết. Người dân Pháp, Hà Lan và Italy cũng có yêu cầu tương tự.
Đồng bảng Anh hôm nay đã mất giá mạnh nhất so với đồng USD kể từ năm 1985 do thị trưởng phản ứng với kết quả kiểm phiếu. Bộ trưởng tài chính Nhật Bản tổ chức họp báo trong bối cảnh đồng Yên tăng do lo sợ Brexit, tức Anh rời khỏi châu Âu.
Người dân Anh nếu chọn rời khỏi EU sẽ khiến Anh đi theo con đường vô định và là bước thụt lùi lớn nhất đối với nỗ lực tăng cường đoàn kết sau Thế Chiến II, theo Reuters.
Wall Street Journal trước đó dự đoán nếu người dân chọn Brexit, nền chính trị Anh có thể rơi vào hỗn loạn. Thủ tướng Anh David Cameron có nguy cơ đối mặt với sức ép phải từ chức, buộc Anh phải tổ chức tổng tuyển cử.
Tuy nhiên, Andrew Bridgen, thượng nghị sĩ đảng Bảo thủ ủng hộ Brexit, cho rằng ông Cameron nên tiếp tục làm thủ tướng để trấn an người dân ở Scotland và bắc Ireland, cũng như thị trường.
EU và Anh sẽ thảo luận và ký kết thỏa thuận quy định thể thức rút khỏi EU“Chúng tôi cần sự ổn định. Ông ấy nên tiếp tục”, Bridgen trả lời khi được hỏi ông Cameron nên tiếp tục cầm quyền trong bao lâu.
Thủ tướng Cameron, lập trường thân EU và nghiêng về ở lại liên minh, tổ chức trưng cầu dân ý do đối mặt với áp lực từ đảng Bảo thủ và ảnh hưởng ngày càng tăng từ phe phản đối EU. Ông hy vọng cuộc trưng cầu sẽ giúp kết thúc tranh cãi kéo dài nhiều thập kỷ về vị trí của Anh ở châu Âu và quan hệ với EU.
Trong chiến dịch vận động bỏ phiếu ở lại, ông khẳng định sẽ không từ chức cho dù kết quả trưng cầu là gì. Tuy nhiên, một số chuyên gia và đảng viên Bảo thủ nói lập trường thân EU sẽ khiến vị trí của ông Cameron lung lay và đảng cầm quyền có cơ chế để buộc ông phải từ chức dù không muốn.
Sự tác động đến nền kinh tếĐối với giới chức Anh, kịch bản Brexit sẽ gây tác động xấu tới nền kinh tế quốc gia. Tác động của việc Anh rời EU trước mắt là “một thập niên bất ổn” do Anh sẽ phải cần rất nhiều thời gian để đàm phán các thỏa thuận thương mại với các nước trong và ngoài EU. Việc bỏ phiếu rời EU sẽ là điểm khởi đầu của một quá trình, chứ không phải điểm kết thúc.
“Brexit” sẽ gây ra sự bất ổn trên các thị trường tài chính, lên tình hình đầu tư và ảnh hưởng tới giá trị đồng bảng Anh. Hoạt động thương mại của Anh sẽ rơi vào tình trạng mất ổn định, do nước này cần phải đàm phán lại từng thỏa thuận với hơn 50 nước đang có các thỏa thuận thương mại với EU. Bên cạnh đó, các lĩnh vực chế tạo ôtô, nông nghiệp và dịch vụ tài chính cũng sẽ bị ảnh hưởng, bởi nước Anh ước cần 10 năm để tách mình khỏi EU.
Giai đoạn 10 năm này bao gồm thời gian Anh dùng để rời khỏi EU, để thiết lập các thỏa thuận thương mại mới và các thỏa thuận liên quan, cũng như thương thảo các hiệp định thương mại mới với Mỹ và các nước khác trên thế giới.
Chính phủ Anh sẽ mất khoảng 36 tỷ bảng tiền thuế ròng khi Anh rời khỏi EUBáo cáo của Ủy ban Thượng viện Anh về EU nhấn mạnh, việc xác định và giải quyết quyền lợi của khoảng 2 triệu công dân Anh đang sinh sống tại các nước EU, cũng như khoảng chừng đó công dân EU đang sinh sống tại Anh là một công việc hết sức phức tạp bởi liên quan nhiều vấn đề, từ quyền được cư trú, chăm sóc y tế, học hành, duy trì các khoản phúc lợi xã hội… cho tới các dự án nghiên cứu và hợp đồng xuyên biên giới.
Dự đoán về bối cảnh kinh tế Anh hậu “Brexit”, Liên đoàn Công nghiệp Anh (CBI) – tổ chức đại diện các doanh nghiệp ở Anh cảnh báo, “Brexit” có thể gây tổn thất cho nền kinh tế Anh 100 tỷ bảng và gần 1 triệu việc làm.
Còn theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), “Brexit” sẽ làm gián đoạn các mối quan hệ thương mại đã được xác lập và gây ra những thách thức lớn cho cả Anh và phần còn lại của châu Âu. Các cuộc thương lượng nhằm đạt được các thỏa thuận hậu Brexit sẽ kéo dài, không chỉ tác động nặng nề tới lòng tin người tiêu dùng và giới đầu tư mà còn làm tăng tính dễ tổn thương của thị trường tài chính. IMF cảnh báo, Anh rời khỏi EU sẽ làm gián đoạn và suy giảm các dòng chảy tài chính và thương mại song phương, thu hẹp lợi ích có được từ việc hội nhập và hợp tác kinh tế như những gì các nền kinh tế đang có được hiện nay.
Brexit” có thể gây tổn thất cho nền kinh tế Anh 100 tỷ bảng và gần 1 triệu việc làm.Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nhận định, người dân Anh sẽ nghèo đi nếu quốc gia này rời khỏi EU. Cụ thể, trong vòng 4 năm, tức là tính đến năm 2020, mỗi người lao động ở Anh sẽ chịu tổng thiệt hại bằng một tháng lương hiện tại (3.200 USD). Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Anh sẽ giảm 3,3% trong 4 năm tới và giảm 5,1% vào năm 2030. Những tác động từ bất ổn kinh tế, thuế tăng, việc giảm lao động di cư vì mục đích kinh tế và những biến động đối với đồng bảng là nguyên nhân chính dẫn tới sự sụt giảm này.
Câu chuyện “Brexit” được đánh giá không chỉ dừng lại ở những hệ lụy đối với nền kinh tế Anh mà còn dẫn tới những tác động xấu tới sự gắn kết của toàn khu vực. Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Jean-Claude Juncker cho rằng, việc Anh rời EU sẽ dẫn tới những hậu quả không thể lường trước đối với sự hợp tác ở châu lục này. Bởi theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận do hãng Ipsos-MORI thực hiện, có gần 50% số người được hỏi tại 8 nước thành viên EU (gồm Bỉ, Pháp, Đức, Hungary, Italia, Ba Lan, Tây Ban Nha và Thụy Điển) đã bày tỏ mong muốn có cơ hội được như các cử tri Anh, nghĩa là được tham gia bỏ phiếu về việc nước mình có nên tiếp tục ở lại EU hay không.
NATO cũng cho rằng, nếu viễn cảnh hội chứng “Brexit” (tan rã) trở thành hiện thực, NATO sẽ phải đối mặt với một thực tế đáng lo ngại. Theo Phó Tổng Thư ký NATO A. Vershbow, việc hợp tác với một EU hùng mạnh và thống nhất giờ đây đóng vai trò ngày càng quan trọng. Bởi vậy, bất kỳ vấn đề nào gây ảnh hưởng tới tính thống nhất của EU đều khiến NATO quan ngại.
Sự tác động đến đời sống nước AnhHầu hết các tranh luận trước khi diễn ra cuộc trưng cầu ý dân tại Anh về tư cách thành viên EU đều liên quan đến vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, trong khi chưa ai có thể biết chính xác tác động của việc ra khỏi EU – còn gọi là “Brexit” – thì triển vọng này sẽ gây ra những xáo trộn lớn trong đời sống nước Anh.
Thể thao và văn hóa
Cuộc trưng cầu ý dân về tư cách thành viên EU của Anh diễn ra giữa lúc trái bóng giải vô địch châu Âu (Euro 2016) đang lăn trên các sân cỏ nước Pháp. Vào thời điểm đó, các đại diện của Anh gồm England, Wales và Bắc Ireland có thể hoặc đã ở vòng 1/16 hoặc đã chia tay giải đấu.
Trong ít ngày đó, thể thao châu Âu và chính trị sẽ có cùng một câu hỏi như nhau: Vào hay Ra? EU ít có vai trò trực tiếp đến chính sách thể thao của các nước thành viên mặc dù liên minh này cung cấp một nguồn ngân sách hạn chế cho thể thao đại chúng. Tuy vậy, các quy định trong những lĩnh vực như đi lại tự do và truyền thông có nghĩa “Brexit” sẽ có tác động lớn lên môn thể thao chúng ta xem.
Đội tuyển Anh liệu có bị ảnh hưởngPhó Chủ tịch Câu lạc bộ bóng đá West Ham United, Karren Brady, cảnh báo rằng nếu Anh rời EU và đứng ngoài thỏa thuận tự do di chuyển của EU, các cầu thủ từ EU sẽ không thể dễ dàng tới thi đấu cho các câu lạc bộ bóng đá Anh. Có tới hai phần ba số cầu thủ châu Âu hiện chơi bóng tại Anh sẽ không còn “nghiễm nhiên” có thị thực Anh khi các quy định thành viên EU không còn hiệu lực. EU hiện cũng điều hành nhiều chương trình văn hóa khác nhau, bao gồm cả chương trình Thủ đô Văn hóa châu Âu (mà thành phố Liverpool từng chiến thắng năm 2008) và các tài trợ giải thưởng cho điện ảnh, công nghiệp sáng tạo và kiến trúc. Ví dụ, giải thưởng EU về Kiến trúc đương đại có một giải thưởng trị giá tới 60.000 euro. Tất cả điều này sẽ “ra đi” cùng với “Brexit”.
Nghiên cứu khoa học
Chiếm chỉ 0,9% dân số thế giới song Anh đóng góp 3,3% số nhà nghiên cứu khoa học và những người này tạo ra 6,9% sản lượng khoa học toàn cầu. EU hiện đứng đầu thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chiếm 22,2% thị phần nghiên cứu khoa học toàn cầu, trên Trung Quốc (19,1%) và Mỹ (16,7%). Anh là một trong những nước nhận được hỗ trợ nhiều nhất từ ngân sách của EU cho nghiên cứu khoa học. Trong vòng nghiên cứu khoa học hiện tại của EU mang tên “Horizon 2020”, Anh được nhận 15,4% nguồn vốn, chỉ xếp sau Đức. Và các nhà khoa học Anh cũng đang ngày càng tăng cường cộng tác với quốc tế. Kể từ năm 1981, số bài báo của các nhà khoa học Anh được phổ biến quốc tế đã tăng từ 15% lên hơn 50% hiện nay. Các số liệu mới cũng cho thấy gần 1.000 dự án tại 78 trường đại học Anh và các trung tâm nghiên cứu phụ thuộc vào các quỹ từ Hội đồng Nghiên cứu châu Âu (ERC). Anh hiện có số dự án được ERC tài trợ nhiều hơn bất cứ nước nào khác, chiếm tới 22% – nhiều hơn con số gộp lại của 25 nước thành viên EU khác nhận được.
Nguồn vốn hỗ trợ từ EU cho các nhà khoa học sẽ mất điNếu rời EU, có thể không cần thiết phải quay lưng với “Horizon 2020”, nhưng chính phủ sẽ phải chấp nhận tư cách thành viên “liên kết” từ năm 2020 trở đi. Trong khi đó, chính sự cộng tác khiến Anh trở thành bên tham gia quan trọng trong sân chơi khoa học toàn cầu lại phụ thuộc vào quy định cho phép các nhà khoa học tự do tới Anh. Khoảng 15% nhân viên hàn lâm tại các thể chế của Anh không phải công dân Anh hay EU và con số này có thể tăng lên 20% tại các trường đại học danh tiếng. Tuy nhiên, “Brexit” sẽ cho phép Anh tránh được một vài quy định phiền toái của EU, ví dụ như các quy định về thử nghiệm lâm sàng vốn bị phàn nàn là làm thui chột khả năng sáng tạo.
Người tiêu dùng
Luật pháp châu Âu chịu trách nhiệm về cách thức mà chúng ta sử dụng hàng hóa tiêu dùng, từ cà chua tới phomát, từ chiếc điện thoại di động cho tới cái tủ lạnh bị lỗi. Văn bản luật này được soạn thảo ra để làm hài hòa cái chúng ta chờ đợi nhận được khi mua vật gì đó, từ thứ đơn giản như quả táo, hay cách chúng ta chờ đợi được giải quyết khi mua phải hàng hóa bị lỗi.
Một ví dụ cụ thể về hiệu lực của luật này là việc áp dụng nó cho chi phí sử dụng điện thoại di động ở nước ngoài. Mùa Hè năm 2015, Ủy ban châu Âu đã thông qua luật viễn thông cho thị trường chung, có nghĩa là du khách ở các nước EU sẽ trả mức phí di động tương tự như ở nhà. Một nghị sĩ Anh mô tả luật mới này là “một chiến thắng lớn cho người tiêu dùng Anh” bởi nó sẽ chấm dứt cái gọi là “sốc hóa đơn thanh toán” – khi người đi du lịch trở về và “té ngửa” với khoản cước phí khổng lồ phải trả cho việc gọi điện, nhắn tin và lưu dữ liệu khi ở nước ngoài. Các mức phí sử dụng điện thoại di động ở nước ngoài sẽ giảm xuống từ tháng Tư năm nay và “biến mất” từ tháng 6/2017.
Nhưng nếu Anh rời EU, chúng ta không cần thiết thực hiện quy định này nữa. Chính phủ nói rằng việc không còn sự bảo vệ của luật này có thể khiến các hóa đơn thanh toán tăng lên nhưng nhiều người khác lại không cho là như vậy. Một chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ di động nói rằng một khi được thực hiện, các nhà mạng sẽ không quay lưng với thay đổi đó bởi trong một thị trường cạnh tranh, họ sẽ chẳng có động cơ gì để đơn thương độc mã tăng giá.
Đi lại và Du lịch
Chi phí đi lại bằng máy bay liệu có tăng lên không là một trong những câu hỏi mà người phản đối Anh ra khỏi EU đặt ra bởi khi đó, hành khách đi máy bay sẽ khó buộc các hãng hàng không phải chịu trách nhiệm khi chuyến bay của họ bị hủy hoặc chậm giờ. Một phần ý nghĩa trong luật của EU có tên là “Các quy tắc về chậm, hủy chuyến trong hàng không”, theo đó hành khách đi máy bay có quyền được đòi bồi thường tới 600 euro cho việc các chuyến bay cất cánh từ các nước EU bị chậm hoặc hủy chuyến. Nếu Anh không còn là thành viên EU nữa, hành khách Anh có thể cũng sẽ không được hưởng quyền đòi bồi thường theo quy định này.
Người Anh xa xứ
Khoảng 2 triệu người Anh hiện định cư ở các nước EU khác. Chừng nào Anh vẫn thuộc liên minh này thì quyền lợi hưu trí và y tế của họ vẫn được bảo vệ theo các thỏa thuận tương hỗ. Họ được hưởng lương hưu cũng như bất cứ các khoản gia tăng hàng năm nào của Anh và được chăm sóc y tế miễn phí. Họ cũng có quyền làm việc và sở hữu tài sản tại các nước EU khác và nhận trợ cấp. Mua một căn nhà ở một nước EU sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với việc mua nhà ở một nước ngoài khối. Nhưng nếu nước Anh rời EU, các thỏa thuận này sẽ tự động ngừng áp dụng.
Việc mua nhà của người Anh xa xứ càng trở nên khó khăn hơnNhư lời Bộ trưởng châu Âu David Lidington nói trên tờ “the Observer” (Nhà quan sát), chính phủ khi đó sẽ phải bước vào các cuộc thương lượng khó khăn với các nước EU để tìm kiếm thỏa thuận cho các kiều dân của mình và đây là một phần của hành động “nhảy vào chỗ không biết”. Vì thế có thể hiểu được mối lo ngại của các tổ chức kiều dân Anh và hầu hết thành viên của họ dường như đều muốn tránh “Brexit”. Với họ, “Brexit” sẽ tạo ra một thời kỳ bất ổn kéo dài. Liệu họ có phải nộp đơn xin cư trú và xin giấy phép lao động từ các nước mà họ đến định cư hay không? Liệu họ có được mang quốc tịch kép hay không? Điều gì xảy ra nếu như họ bị bệnh sau khi Anh đã rời EU? Dịch vụ y tế quốc gia (NHS) khám chữa bệnh miễn phí cho tất cả những ai có thẻ y tế châu Âu và người hưu trí Anh cư trú tại Khu vực kinh tế châu Âu (EEA). Nếu “Brexit” xảy ra, nhiều người sẽ trở về nước.
Giáo dục bậc cao
Pháp luật EU hiện hành cho phép công dân đi lại tự do giữa các nước thành viên, tất cả những công dân EU chuyển đến sinh sống tại một nước thành viên EU khác sẽ được tiếp cận giáo dục như công dân của nước sở tại. Tương tự, các sinh viên EU đến một nước EU khác theo học sẽ phải trả học phí như sinh viên bản địa và có thể xin hỗ trợ học phí ở nước theo học.
Trong năm học 2013-2014, có 125.300 sinh viên EU theo học tại các trường đại học trên toàn nước Anh và cũng trong năm đó, đã có 224 triệu bảng được cho sinh viên EU vay để theo học các khóa toàn thời gian ở England – tương đương 3,7% tổng vốn vay của sinh viên. Cơ chế Erasmus+ là một chương trình của EU mở cửa cho các tổ chức giáo dục, đào tạo, thanh thiếu niên và thể thao. Cơ chế này đem lại cơ hội cho người Anh học tập, làm việc, hoạt động tình nguyện, giảng dạy và đào tạo tại châu Âu và sẽ phân bổ gần 1 tỉ euro cho Anh trong 7 năm tới. Dự kiến 250.000 người Anh sẽ tham gia các hoạt động ở nước ngoài theo chương trình này.
Khoảng 15% lực lượng lao động có học vấn của Anh đến từ các nước EU khác. Hơn 200.000 sinh viên Anh và 20.000 người làm việc tại các trường đại học Anh đã ra nước ngoài thông qua cơ chế trao đổi Erasmus. Trong khi chính phủ có thể tiết kiệm được tiền qua việc không phải cấp vốn cho sinh viên từ các nước EU khác vay hay duy trì quỹ cho sinh viên EU, nước Anh sẽ mất quyền tiếp cận nguồn ngân sách dành cho nghiên cứu của EU cũng như các cơ chế trao đổi sinh viên.
Cuối cùng, chính các trường đại học và sinh viên sẽ chịu thua thiệt – nhiều trường đại học đã bày tỏ lo ngại về việc các công trình nghiên cứu của họ có thể bị ngừng cấp vốn. Hầu như tất cả các trường đại học tại Anh đều phản đối “Brexit”. Bà Julia Goodfellow, Chủ tịch Các trường đại học Anh và là Hiệu trưởng Đại học Kent, nói: “Sinh viên Anh hưởng lợi từ việc được những người có trí tuệ ưu tú nhất của châu Âu giảng dạy. Tư cách thành viên EU tốt cho các trường đại học của chúng ta cũng như cho công tác nghiên cứu khoa học nhằm cải thiện cuộc sống con người”.
Chăn nuôi trồng trọt
Từ năm 2014 đến 2020, nông dân ở Anh dự kiến nhận được 27,8 tỷ bảng tiền trợ giá từ chính sách nông nghiệp chung của EU (CAP). Một phần lớn của khoản tiền này là dành cho những đối tượng tham gia cơ chế “môi trường nông nghiệp”, nghĩa là nông dân sẽ được hỗ trợ nếu thực hiện các biện pháp canh tác có tác dụng bảo vệ hoặc cải thiện môi trường. Tiền của CAP cũng được rót vào các dự án phát triển khu vực nông thôn mà nhờ đó Bộ Tài chính giảm bớt được gánh nặng chi trong lĩnh vực này, không phải chi nhiều tiền riêng.
Một Chính phủ Anh hậu EU sẽ phải theo đuổi các thỏa thuận thương mại song phương với từng nước trong EU. Trong khi đó, việc đánh giá lại quy định và cấp phép cho chất bảo vệ thực vật sẽ phải được tiến hành. Anh cũng có thể phải ban hành hệ thống kiểm soát mới cho cây trồng biến đổi gien. Đóng góp ròng của Anh cho ngân sách CAP trong năm 2014 là 1 tỷ bảng (1,27 tỷ euro). Trong một thế giới hậu “Brexit”, Chính phủ Anh sẽ muốn tiếp tục một số hình thức trợ giá nhưng rời khỏi CAP có thể sẽ làm thu nhập của nông dân giảm sút mà chính phủ không chắc sẽ giữ được mức độ bảo hộ như hiện nay.
Ngành công nghiệp chăn nuôi của Anh vẫn có thể khai thác tính cạnh tranh vốn không bị trói buộc bởi EU và nhờ đó có thể đưa giá thực phẩm ở Anh giảm xuống. Nhưng khối lượng nhập khẩu của Anh từ EU cao hơn 2,5 lần so với từ phần còn lại của thế giới, và các biểu thuế mới sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu. Giá thực phẩm đến tay người tiêu dùng theo đó sẽ tăng lên.
Thủ đô London và Khu Tài chính (the City)
Thủ đô London có trung tâm tài chính lớn nhất thế giới và là nơi đặt trụ sở của hơn 250 ngân hàng nước ngoài có quyền tiếp cận thị trường chung theo các thỏa thuận quy chế thành viên EU của Anh. Các dịch vụ tài chính chiếm tới 10% tổng sản lượng quốc nội (GDP) của Anh. Khu Tài chính London là nhà xuất khẩu các dịch vụ tài chính bán sỉ lớn nhất thế giới, tuyển dụng hơn 1 triệu người làm việc.
Nếu rời EU, Anh sẽ phải thương lượng lại các điều khoản của bất cứ quyền tiếp cận thị trường chung hậu quy chế thành viên nào, trong khi các trung tâm tài chính đối thủ của nó ở cả trong và ngoài EU như New York, Hong Kong, Tokyo, Frankfurt và Dublin đều sẽ tìm cơ hội trục lợi trong giai đoạn bất ổn này. Tuy vậy, ý kiến về “Brexit” lại trái chiều tại Khu Tài chính. Nhiều công ty nhỏ nói rằng “the City” sẽ phát triển hơn một khi được giải phóng khỏi các quy định của EU, nhưng những nhà tạo công ăn việc làm và lợi nhuận lớn hơn cho rằng những rủi ro khi nằm ngoài EU là khó có thể lường hết được.
Đại diện của hai ngân hàng Goldman Sachs và JPMorgan từng phát biểu trước Ủy ban Quốc hội về tiêu chuẩn ngân hàng rằng: “Cũng như các thể chế tài chính khác ở ‘the City’, khả năng cung cấp dịch vụ cho khách hàng và tham gia các hoạt động đầu tư của chúng tôi khắp châu Âu phụ thuộc vào tấm hộ chiếu mà các doanh nghiệp có trụ sở tại London được hưởng để hoạt động xuyên biên giới trong khuôn khổ Liên minh châu Âu. Nếu Anh rời EU, nhiều khả năng tấm hộ chiếu này không còn nữa, do đó buộc các công ty muốn tiếp cận các thị trường châu Âu phải chuyển hoạt động của họ tới các thị trường đó”.
An ninh và Quốc phòng
Trong nhiều thập niên, EU đã cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi mà cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger từng đặt ra, rằng “Tôi sẽ gọi ai nếu muốn gọi châu Âu?” Nhưng tiến trình dẫn tới một chính sách phòng vệ chung của EU còn chậm chạp và không chắc chắn. Tuy nhiên vào năm 2009, Hiệp ước Lisbon bắt đầu có hiệu lực và tạo ra chính sách phòng vệ và an ninh chung. Hiệp ước này xác định các mục tiêu cần sự đoàn kết và hỗ trợ chung và cho phép tạo ra một “Bộ Ngoại giao” chung là Cơ quan hành động đối ngoại châu Âu (EEAS) chuyên trách chính sách an ninh và quốc phòng của khối. Dù có vai trò hạn chế với các sứ mệnh hòa bình, EEAS cũng đã giúp bình ổn tại Balkans, Gzuria và Indonesia, trong khi tại Afghanistan, cơ quan này đã làm việc với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) nhằm tăng cường năng lực cho cảnh sát Afghanistan.
Anh có thể tiếp tục ủng hộ các hoạt động của EEAS như một bên thứ ba, với mong muốn tránh được những sự can dự tốn kém hơn của NATO. Chính phủ Anh hiện rất ủng hộ ý tưởng phòng vệ tập thể của châu Âu và thậm chí còn sốt sắng hơn nữa về chính sách an ninh EU và chính sách chống khủng bố, chia sẻ thông tin tình báo của khối này. Thủ tướng David Cameron đã chỉ ra lợi ích cụ thể của việc chia sẻ thông tin tình báo EU và Trát bắt giữ châu Âu (EAW) như các công cụ đắc lực để theo dõi khủng bố và ngăn chặn các cuộc tấn công trên các đường phố Anh.
Môi trường
Môi trường là lĩnh vực mà luật pháp Anh và EU có liên hệ chặt chẽ với nhau. Các nguyên tắc môi trường trong Đạo luật châu Âu chung nêu rõ mục tiêu hành động của EU là “gìn giữ, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường; đóng góp vào việc bảo vệ sức khỏe con người; và đảm bảo sử dụng thận trọng và có trách nhiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên”.
Luật pháp EU đặt ra giới hạn về một loạt chỉ số ô nhiễm không khí và yêu cầu các nước thành viên có kế hoạch cụ thể thực hiện các mục tiêu này. Cơ chế buôn bán khí thải EU định ra mức trần lượng khí thải mà các khu vực sử dụng nhiều năng lượng phải giảm, đồng thời phân bổ hoặc đấu giá hạn mức khí thải mà các bên có thể mua bán trên thị trường mở. Cơ chế này sẽ cho phép giảm 21% lượng khí thải vào năm 2020 so với mức của năm 2005 cho tất cả các ngành nghề ở châu Âu.
Chính phủ Anh đã bày tỏ sự “ủng hộ mạnh mẽ” các mục tiêu về môi trường của EU, đặc biệt trong việc bảo vệ động vật hoang dã và vấn đề quy hoạch, bởi thế nhiều khả năng sẽ không có biến động lớn trong vấn đề môi trường nếu “Brexit” xảy ra.
Trong một số trường hợp, các tiêu chuẩn mà Anh đặt ra, ví như tiêu chuẩn nước uống, thậm chí còn cao hơn yêu cầu chung của EU. Tuy nhiên, ra khỏi liên minh này sẽ dẫn đến bất ổn nhiều hơn cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực môi trường. Một nhà kinh tế thuộc Hiệp hội Dịch vụ Môi trường nói rằng sự chia tay EU “sẽ dẫn đến một khoảng trống khổng lồ cho ngành công nghiệp này bởi không rõ chúng ta sẽ giữ được thành phần nào trên hành trình của châu Âu tiến tới các tầng nấc môi trường bền vững hơn” và “hàng tỉ bảng đầu tư mới trong các lĩnh vực việc làm và tăng trưởng ‘xanh’ có thể ‘bốc hơi’ chỉ trong một sớm một chiều”.
*Asean:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam ÁASEAN Thành phố lớn nhấtNgôn ngữ hành chínhChính phủThành lậpDiện tíchDân sốĐơn vị tiền tệMúi giờMã điện thoạiTên miền Internet
Khẩu hiệu: "Một tầm nhìn, một bản sắc, một cộng đồng" | ||
Nơi đặt Ủy ban Thư ký | Jakarta | |
Jakarta | ||
Tiếng Anh[hiện] | ||
Các quốc gia thành viên | 10[hiện] | |
Tổ chức khu vực | ||
- | Tổng thư ký | Lê Lương Minh |
- | Chủ tịch Hội nghị | Thongloun Sisoulith |
- | Tuyên ngôn Bangkok | 8 tháng 8 năm 1967 |
- | Hiến chương | 16 tháng 12 năm 2008 |
- | Tổng cộng | 4,464,322 km2 2,772,344 mi2 |
- | Ước lượng 2010 | 601 triệu |
- | Mật độ | 135/km2 216/mi2 |
GDP (PPP) | Ước lượng 2010 | |
- | Tổng số | $ 3.084 nghìn tỷ [1] |
- | Bình quân đầu người | $ 5,131 |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2010 | |
- | Tổng số | $ 1.800 nghìn tỷ |
- | Bình quân đầu người | $ 2,995 |
HDI? (2014) | 0,673 trung bình · hạng 120 |
|
10[hiện] | ||
ASEAN(UTC+9 đến +6:30) | ||
10[hiện] | ||
10[hiện] | ||
Trang web http://www.asean.org/ |
||
1. | Nếu xem như một thực thể độc lập. | |
2. | Các chỉ số cơ bản chính của ASEAN | |
3. | Tăng dân số hàng năm 1.6% |
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of South East Asian Nations, viết tắt là ASEAN) là 1 liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines, để biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Bali năm 1976, ASEAN xúc tiến chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các nỗ lực đều đi đến bế tắc vào giữa thập niên 1980. Phải đợi đến năm 1991 khi Thái Lan đề phát thành lập khu vực thương mại tự do thì khối mậu dịch ASEAN mới hình thành. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để tăng cường hợp tác. Tính đến năm 1999, ASEAN gồm có 10 quốc gia thành viên (chỉ chừa Đông Timor chưa kết nạp).
ASEAN bao gồm diện tích đất 4,46 triệu km², là 3% tổng diện tích đất của Trái Đất, và có số dân khoảng 600 triệu người, 8,8% dân số thế giới. Vùng biển của ASEAN là ba lần lớn hơn so với đất. Trong năm 2010, kết hợp GDP danh nghĩa tại ASEAN đã phát triển thành 1,8 nghìn tỷ USD.[2] Nếu ASEAN là một thực thể duy nhất, quốc gia đó sẽ xếp hạng trong các nền kinh tế lớn thứ 10 trên thế giới, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Nga, Pháp, Canada, Tây Ban Nha, Brazil, Anh, và Ý. Dự kiến đến năm 2030 thực thể này sẽ đứng thứ 4 trên thế giới. Vào ngày 31/12/2015, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á sẽ hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community- AEC).
Mục lục [xem]
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm: Danh sách các quốc gia thành viên ASEAN
Tiền thân của ASEAN là tổ chức có tên Hiệp hội Đông Nam Á, thường được gọi tắt là ASA. ASA là một liên minh thành lập năm 1961 gồm ba nước Philippines, Malaysia và Thái Lan. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các bộ trưởng ngoại giao của năm quốc gia – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan – gặp gỡ tại Bộ ngoại giao Thái Lan ở Bangkok đã ra Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok để nhập ASA cùng với Indonesia và Singapore thành ASEAN. Năm ngoại trưởng – Adam Malik của Indonesia, Narciso Ramos của Philippines, Abdul Razak của Malaysia, S. Rajaratnam của Singapore, và Thanat Khoman của Thái Lan – được coi là những sáng lập viên của tổ chức này.[3]
Ba động lực tạo ra ASEAN là mục đích xây dựng đất nước và mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị và an ninh. Các quốc gia trong vùng khi đã mất tin tưởng vào các cường quốc bên ngoài đã tìm đến nhau trong bối cảnh của thập niên 1960 hầu hỗ trợ lẫn nhau. Đối với Indonesia thì nước này còn có tham vọng bá chủ trong khu vực trong khi Malaysia và Singapore thì lại muốn dùng ASEAN để kiềm chế Indonesia, đưa nước này vào một khuôn khổ mang tính hợp tác hơn. Khác với Liên minh châu Âu với mô hình phân giảm quyền hành tập trung ở mỗi quốc gia, ASEAN có mục đích bảo vệ và chấn hưng chủ nghĩa quốc gia.[4]
Năm 1976, nhà nước Melanesian Papua New Guinea được trao quy chế quan sát viên.[5] Trong suốt thập niên 1970, tổ chức này bám vào một chương trình hợp tác kinh tế, sau Hội nghị thượng đỉnh Bali năm 1976. Nó đã giảm giá trị hồi giữa thập niên ’80 và chỉ được hồi phục khoảng năm 1991 nhờ một đề xuất của Thái Lan về một khu vực tự do thương mại cấp vùng. Sau đó khối này mở rộng khi Brunei Darussalam trở thành thành viên thứ sáu sau khi gia nhập ngày 8 tháng 1 năm 1984, chỉ một tuần sau khi họ giành được độc lập ngày 1 tháng 1.[6]
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy.[7] Lào và Myanmar gia nhập hai năm sau ngày 23 tháng 7 năm 1997.[8] Campuchia đã dự định gia nhập cùng Lào và Myanmar, nhưng bị trị hoãn vì cuộc tranh giành chính trị nội bộ. Nước này sau đó gia nhập ngày 30 tháng 4 năm 1999, sau khi đã ổn định chính phủ.[8][9]
Trong thập niên 1990, khối có sự gia tăng cả về số thành viên cũng như khuynh hướng tiếp tục hội nhập. Năm 1990, Malaysia đề nghị thành lập một Diễn đàn Kinh tế Đông Á[10] gồm các thành viên hiện tại của ASEAN và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc, với mục tiêu cân bằng sự gia tăng ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) cũng như tại vùng châu Á như một tổng thể.[11][12] Tuy nhiên, đề xuất này đã thất bại bởi nó gặp sự phản đối mạnh mẽ từ Nhật Bản và Hoa Kỳ.[11][13] Dù vậy, các quốc gia thành viên tiếp tục làm việc để hội nhập sâu hơn. Năm 1992, kế hoạch Biểu thuế Ưu đãi Chung (CEPT) được ký kết như một thời gian biểu cho việc từng bước huỷ bỏ các khoản thuế và như một mục tiêu tăng cường lợi thế cạnh tranh của vùng như một cơ sở sản xuất hướng tới thị trường thế giới. Điều luật này sẽ hoạt động như một khuôn khổ cho Khu vực Tự do Thương mại ASEAN. Sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Đông Á năm 1997, một sự khôi phục lại đề nghị của Malaysia được đưa ra tại Chiang Mai, được gọi là Sáng kiến Chiang Mai, kêu gọi sự hội nhập tốt hơn nữa giữa các nền kinh tế của ASEAN cũng như các quốc gia ASEAN Cộng Ba (Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc).[14]
Bên cạnh việc cải thiện nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên, khối cũng tập trung trên hoà bình và sự ổn định của khu vực. Ngày 15 tháng 12 năm 1995, Hiệp ước Đông Nam Á Không Vũ khí Hạt nhân đã được ký kết với mục tiêu biến Đông Nam Á trở thành Vùng Không Vũ khí Hạt nhân. Hiệp ước có hiệu lực ngày 28 tháng 3 năm 1997 nhưng mới chỉ có một quốc gia thành viên phê chuẩn nó. Nó hoàn toàn có hiệu lực ngày 21 tháng 6 năm 2001, sau khi Philippines phê chuẩn, cấm hoàn toàn mọi loại vũ khí hạt nhân trong vùng.[15]
Hình vệ tinh của lớp khói bụi năm 2006 trên BorneoSau khi thế kỷ 21 bắt đầu, các vấn đề chuyển sang khuynh hướng môi trường hơn. Tổ chức này bắt đầu đàm phán các thoả thuận về môi trường. Chúng bao gồm việc ký kết Thoả thuận về Ô nhiễm Khói bụi Xuyên biên giới ASEAN năm 2002 như một nỗ lực nhằm kiểm soát ô nhiễm khói bụi ở Đông Nam Á.[16] Không may thay, nó không thành công vì những vụ bùng phát khói bụi Malaysia năm 2005 và khói bụi Đông Nam Á năm 2006. Các hiệp ước môi trường khác do tổ chức này đưa ra gồm Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á,[17] the ASEAN-Wildlife Enforcement Network in 2005,[18] và Đối tác châu Á Thái Bình Dương về Phát triển Sạch và Khí hậu, cả hai đều nhằm giải quyết những hiệu ứng có thể xảy ra từ sự thay đổi khí hậu. Thay đổi khí hậu cũng là vấn đề được quan tâm hiện nay.
Trong Hiệp ước Bali II năm 2003, ASEAN đã tán thành khái niệm hoà bình dân chủ, có nghĩa là mọi thành viên tin rằng các quá trình dân chủ sẽ thúc đẩy hoà bình và ổn định trong khu vực. Tương tự, các thành viên phi dân chủ đều đồng ý rằng đây là điều mà mọi quốc gia thành viên đều mong muốn thực hiện.[19]
Các lãnh đạo của mỗi nước, đặc biệt là Mahathir Mohamad của Malaysia, cũng cảm thấy sự cần thiết hội nhập hơn nữa của khu vực. Bắt đầu từ năm 1997, khối đã thành lập các tổ chức bên trong khuôn khổ của họ với mục tiêu hoàn thành tham vọng này. ASEAN Cộng Ba là tổ chức đầu tiên trong số đó được thành lập để cải thiện những quan hệ sẵn có với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiếp đó là Hội nghị thượng đỉnh Đông Á còn rộng lớn hơn, bao gồm tất cả các nước trên cùng Ấn Độ, Úc và New Zealand. Nhóm mới này hoạt động như một điều kiện tiên quyết cho Cộng đồng Đông Á đã được lên kế hoạch, dự định theo mô hình của Cộng đồng châu Âu hiện đã không còn hoạt động nữa. Nhóm Nhân vật Nổi bật ASEAN đã được tạo ra để nghiên cứu những thành công và thất bại có thể xảy ra của chính sách này cũng như khả năng về việc soạn thảo một Hiến chương ASEAN.
Năm 2006, ASEAN được trao vị thế quan sát viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.[20] Đổi lại, tổ chức này trao vị thế "đối tác đối thoại" cho Liên hiệp quốc.[21] Hơn nữa, ngày 23 tháng 7 năm đó, José Ramos-Horta, khi ấy là Thủ tướng Đông Timor, đã ký một yêu cầu chính thức về vị thế thành viên và hy vọng quá trình gia nhập sẽ kết thúc ít nhất năm năm trước khi nước này khi ấy đang là một quan sát viên trở thành một thành viên chính thức.[22][23]
Năm 2007, ASEAN kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi đầu, và 30 năm quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.[24] Ngày 26 tháng 8 năm 2007, ASEAN nói rằng các mục tiêu của họ là hoàn thành mọi thoả thuận tự do thương mại của Tổ chức này với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand vào năm 2013, vùng với việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015.[25][26] Tháng 11 năm 2007 các thành viên ASEAN đã ký Hiến chương ASEAN, một điều luật quản lý mọi quan hệ bên trong các thành viên ASEAN và biến ASEAN thành một thực thể luật pháp quốc tế. Cùng trong năm ấy, Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á tại Cebu ngày 15 tháng 1 năm 2007, của ASEAN và các thành viên khác của EAS (Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc), khuyến khích an ninh năng lượng bằng cách tài trợ vốn cho các nghiên cứu về năng lượng thay thế cho các loại nhiên liệu quy ước.[cần dẫn nguồn]
Ngày 27 tháng 2 năm 2009 một Thoả thuận Tự do Thương mại giữa 10 quốc gia thành viên khối ASEAN và New Zealand cùng đối tác thân cận của họ là Úc đã được ký kết, ước tính rằng Thoả thuận Tự do Thương mại này sẽ làm tăng GDP của 12 quốc gia lên thêm hơn 48 tỷ USD trong giai đoạn 2000-2020.[27][28]
Các thành viên[sửa | sửa mã nguồn]
██ Thành viên đầy đủ ASEAN ██ Quan sát viên ASEAN ██ Ứng cử viên ASEAN và gia nhập ASEAN ██ ASEAN + 3 ███ Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ██████ Diễn đàn Khu vực ASEAN |
Hiện nay, tổ chức này gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo ngày gia nhập:
Các quốc gia sáng lập (ngày 8 tháng 8 năm 1967): Cộng hoà Indonesia Liên bang Malaysia Cộng hoà Philippines Cộng hòa Singapore Vương quốc