Chỉ ra các phép liên kết câu và liên kết đoạn văn trong những trường hợp sau đây:
a) Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ra phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến.
Muốn được như thế thì thầy giáo, học trò và cán bộ phải cố gắng hơn nữa để tiến bộ hơn nữa.
(Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục)
NGỮ VĂN 9 : VIẾT BÀI SỐ 3
1) Tìm hiểu về tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến c' Mĩ
2) Nhiệm vụ những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn
Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói tới việc lấy tài liệu để viết như sau:
Muốn có tài liệu thì phải tìm, tức là:
a. Nghe: Lắng nghe các cán bộ, nghe các chiến sĩ, nghe đồng bào để lấy tài liệu mà viết.
b. Hỏi: Hỏi những người đi xa về, hỏi nhân dân, hỏi bộ đội những việc, những tình hình ở các nơi.
c. Thấy: Mình phải đi đến, xem xét mà thấy.
d. Xem: Xem báo chí, xem sách vở. Xem báo chí trong nước, xem báo chí nước ngoài.
e. Ghi: Những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã học được, thì chép lấy để dùng và viết.
(Hồ Chí Minh, Cách viết, trong giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Sđd)
Dựa theo ý kiến trên, hãy nêu cách em sẽ thực hiện để làm tăng vốn từ
Hình tượng người lính lái xe trên tuyến đường Trương Sơn thời chống Mỹ được tác giả khắc hoạ qua những phương diện nào ? A.Đời sống tâm hồn; hoàn cảnh sống và chiến đấu;phẩm chất của người lính nơi chiến trường. B.Nỗi lòng riêng tư; hoàn cảnh sống và chiến đấu;phẩm chất của người lính nơi chiến trường. C.Hoàn cảnh sống và chiến đấu; phẩm chất của người lính nơi chiến trường. D.Hoàn cảnh xuất thân; hoàn cảnh sống và chiến đấu; phẩm chất của người lính nơi chiến trường A đúng ko mn hay D ạ
Trong cuộc chiến phòng, chống dịch Covid 19 đã đọng lại nhiều hình ảnh xúc động, chạm đến trái tim của hàng triệu người Việt Nam. Từ hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” và thực tế việc làm của các “chiến sĩ áo trắng”, các cán bộ, chiến sĩ bộ đội, công an nơi tuyến đầu chống dịch…Em hãy trình bày suy nghĩ (khoảng 2/3 trang giấy thi) về sự hy sinh thầm lặng cần có của mỗi người trong cuộc sống.
C4: Trong bài thơ trên, nhà thơ đã khắc họa đc hình tượng người chiến sĩ lái xe Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, coi thường hiểm nguy. Hãy triển khai nội dung trên thành đoạn văn theo phương pháp tổng phân hợp có độ dài 10-12 câu, trong đó có sự dụng 1 câu bị động, 1 câu ghép ( gạch chân và chú thích) yêu cầu về hình thức.
Khi phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, trong phần giải quyết vấn đề, bạn em đã nêu được một nhận xét:
“Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ”
a. Câu văn trên chứa đựng đề tài gì?
Câu 1 (3.5 điểm)
Trong lời bài hát "Xe ta đi trong đêm Trường Sơn" của nhạc sĩ Tân Huyền có đoạn:
"Những đêm Trường Sơn
Đường tiền tuyến uốn quanh co
Mây trời đẹp quá,
Vỡ kính rồi, trăng tràn cả vào xe..."
1. Đoạn lời bài hát trên gợi em liên tưởng đến bài thơ nào mà em đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 9? Tác giả bài thơ đó là ai?
2. Nhớ lại bài thơ mà em vừa nhắc tới và thực hiện các yêu cầu:
a. Bài thơ viết theo thể thơ nào? Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là gì?
b. Xác định và nêu hiệu quả của các biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Câu 2 (1.5 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Chàng vội gọi, nàng vẫn giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.
(Nguyễn Dữ, Chuyện người con gái Nam Xương)
a. Xác định lời dẫn trong đoạn văn và cho biết dẫn theo cách dẫn nào?
b. Qua lời dẫn trên, em thấy nhân vật là người thế nào?
c. Từ đó, theo em lời dẫn có vai trò gì khi xây dựng nhân vật trong văn bản tự sự.
Câu 3 (5.0 điểm)
Cảm nghĩ về tâm trạng của ông Hai trong đoạn trích sau:
“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc đi:
- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…
…Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.
Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…Ông lão nắm chặt hai tay mà rít lên:
- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng cho lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!...
Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước … Lại còn bao nhiêu người làng tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa? ….”
Tôi là Sáu - một người chiến sĩ xung phong trên chiến trường Nam Bộ. Ngày tôi tạm biệt mái ấm gia đình để lên đường ra trận, con gái tôi-bé Thu mới chỉ được một tuổi. Với tôi, bé Thu là niềm hạnh phúc nhất cuộc đời này, cũng chính là động lực để tôi hết mình chiến đấu và sớm ngày trở về gặp con. Đằng đẵng bảy năm trôi qua, tôi mới có dịp quay về quê nhà. Dẫu cho tấm ảnh má con nó tôi vẫn luôn nâng niu và nhìn ngắm mỗi ngày thì cái cảm giác được gặp con, được ôm con vào lòng vẫn khiến tôi khao khát, mong chờ vô cùng.
Còn nhớ ngày tôi đi, bé Thu còn được ẵm trên tay mẹ. Gương mặt con bé kháu khỉnh, đáng yêu lắm. Những ngày vợ đến thăm, tôi đều nhắn nhủ lần sau nhớ dắt con theo nhưng trong tâm vẫn biết rõ điều đấy là không thể. Thời thế loạn lạc, dẫn theo con chẳng khác nào đưa nó vào nguy hiểm. Tôi biết rõ cả chứ. Chỉ có điều nỗi nhớ và sự khao khát được gặp lại con cứ dâng mãi trong lòng.
Cũng vì vậy mà chuyến về quê này với tôi là một niềm hạnh phúc vô bờ bến. Cái ngày mà tôi chờ đợi suốt bảy năm qua cuối cùng cũng đến. Lòng tôi cứ nao nao, bồn chồn mãi. Nghĩ đến cảnh được đoàn tụ với gia đình, được ôm hôn con, được nghe tiếng con gọi ba thân mật,…là tôi lại vui đến mức không ngủ được.
Chiếc xuồng dần cập bến. Hình ảnh ngôi nhà cùng hàng dừa xanh cũng dần hiện rõ hơn. Dù từ xa, bóng bé gái tóc ngắn ngang vai, mặc quần bông áo đỏ hiện lên mờ nhạt, tôi vẫn nhận ra ngay đó là con gái mình. Tôi toan chạy khi xuồng chưa cập bến hẳn và gọi to:
“Thu, con”.
Ngay từ lúc cất tiếng gọi, như những gì đã mường tượng suốt một đêm hôm qua, tôi nghĩ rằng bé Thu sẽ chạy đến ôm tôi và vui mừng vì ba nó đã về gặp nó. Nhưng không, ánh mắt con bé ngơ ngác, tròn xoe. Nó giật mình khi nghe tiếng tôi gọi, càng hốt hoảng hơn khi nhìn rõ mặt tôi khi tôi tiến lại gần. Một cảm giác hụt hẫng bao lấy con người tôi. Vừa xúc động, vừa thất vọng, vết thẹo dài trên má tôi cũng đỏ hơn, hằn rõ hơn. Có lẽ vì vậy mà bé Thu sợ hãi, bỏ chạy đi tìm mẹ.
Trái tim tôi nhói lên đau đớn. Tôi chưa từng nghĩ đến cảnh tượng này, chưa từng nghĩ con gái sẽ sợ hãi, tránh né người cha đã bảy năm không gặp như thế…Đứa con gái mà tôi mong ngóng từng ngày lại không chấp nhận người cha này. Lòng tôi cứ như có vết dao cắt, chẳng thể nào nguôi ngoai.
Mẹ bé Thu thông báo với gia đình và bà con hàng xóm. Ai nấy đều đến hỏi thăm, quan tâm khiến tôi cảm động, phấn khởi vô cùng. Nhưng dường như trong lòng vẫn có cảm giác trống trải. Thỉnh thoảng, tôi đưa mắt nhìn bé Thu, nhưng đổi lại là sự tránh né của con bé. Ờ thì, có lẽ nó cư xử như vậy cũng không có gì kỳ lạ. Vì khi tôi lên đường đi chiến đấu, bé Thu chưa tròn 1 tuổi nữa mà. Nó còn quá nhỏ để khắc ghi hình ảnh người cha này và bây giờ cũng chưa đủ lớn để nhận biết được.
Dù vậy, lần này tôi chỉ được quay về nghỉ phép ba ngày. Ba ngày ngắn ngủi quá, tôi không dám và cũng không muốn đi đâu xa. Cả ngày ở nhà cố gần gũi với con bé. Càng gần ngày đi, chỉ càng mong nghe được tiếng con gọi “ba”, mong được con thân mật, yêu thương mình. Cũng vì vậy mà sự khao khát được gần bên con cũng càng nhiều hơn.
Nhưng con bé cũng có kiên định của riêng nó. Nó nhất quyết không gọi tôi một tiếng cho dù đang trong hoàn cảnh cần tôi giúp đỡ. Lúc nào cần nói, nó cũng không gọi ba, chỉ nói trống không. Trong bữa cơm hôm ấy, tôi ân cần gắp cho con một miếng trứng cá to vào bát. Nó không nói gì, rồi bất ngờ hất miếng trứng ra, cơm văng tung tóe khắp mâm. Tôi giận lắm, không kìm chế được, vừa giận vừa thương lấy tay phát liền hai cái vào mông nó, mắng: "Sao mày cứng đầu quá vậy hả?”
Đánh con xong lòng tôi đau như có ai xát muối vào vết thương. Nhưng lạ thay, bé Thu chẳng khóc, chẳng nói chẳng rằng, nó cúi gằm mặt, lặng lẽ gắp miếng trứng cá đặt lại vào chén rồi ra thuyền, chèo sang bên nhà ngoại. Lúc này, tôi cảm thấy ân hận lắm. Con bé không có lỗi, nó còn quá nhỏ để hiểu mọi thứ. Tất cả là do chiến tranh tàn khốc đã ngăn cách ba con chúng tôi.
Ba ngày ngắn ngủi cũng trôi qua, mai là ngày tôi phải lên đường quay về chiến trường. Nơi chiến trường khốc liệt, ra đi nào có dám nghĩ đến ngày quay về. Tôi chỉ tha thiết được nghe con gọi ba một lần thật ấm áp mà sao lại khó đến thế. Cả đêm không ngủ. Tôi cứ nghĩ mãi về gia đình, về bé Thu…Nước mắt cứ chực trào ra. Sáng ngày đi, bà con nội ngoại, hàng xóm đến rất đông. Ai nấy đều bùi ngùi chia tay, dặn dò tôi ráng giữ sức khỏe chờ ngày đất nước thống nhất để quay trở về. Mãi tiếp khách, tôi cũng không có thời gian ngó tới con bé. Lúc đeo ba lô lên vai, tôi có nhìn bé Thu. Nỗi đau trong lòng dường như không quá mạnh mẽ như lúc đầu con không nhận ra mình nữa. Thay vào đó, lòng tôi đầy sự trống trải, đượm buồn, tiếc nuối và thương con nhiều hơn. Bé Thu trông không còn bướng bỉnh nữa, trước mắt tôi, con bé nhìn có chút buồn hơn những ngày trước. Trước phút chia xa, tôi chỉ muốn ôm hôn lấy con một lần, nhưng vì sợ vết thẹo trên má mình khiến con hoảng sợ, tôi đành ngậm ngùi chào: “Thôi, ba đi nghe con”.
Phút chia ly, lòng tôi nghẹn ngào khóc không thành tiếng. Nhưng điều khiến tôi xúc động đến tột cùng là lúc cái Thu gọi lên một tiếng dài: “Ba”. Tôi như không tin vào tai mình. Đó là tiếng bé Thu gọi mình đấy sao? Tiếng gọi mà tôi đã chờ đợi suốt bao lâu nay. Tôi toan quay đầu lại, con bé đã chạy đến ôm tôi chặt cứng. Nó không ngừng hôn lên má tôi, lên vết thẹo dài, miệng cứ liên tục: “Ba, ba ở lại với con. Con không cho ba đi nữa.”
Đến bây giờ mới là phút giây tôi cảm nhận rõ nhất tình phụ tử. Ấy thế mà tôi lại sắp phải chia tay con. Nghẹn ngào chẳng thể nói được nên lời, tôi kiềm lòng dặn dò con bé và cũng tự trấn an mình: “Ba đi rồi ba sẽ về thôi nghen con!”.
Nhưng con bé không chịu nghe, hai tay nó ôm chặt lấy cổ tôi. Đôi chân nhỏ bé quặp ngang hai bên hông của tôi. Bé Thu nức nở khóc và tôi cũng thấy khóe mắt mình cay cay. Đến khi má nó và bà ngoại lại gần dỗ dành, con bé mới chịu buông tôi ra. Nước mắt lưng tròng, nó nức nở: “Ba đi rồi về mua cho con cây lược nghe ba!”.
Phút chia tay nghẹn ngào nhưng cũng ngắn ngủi quá, chúng tôi từ biệt mọi người trở chiến trường nhận nhiệm vụ. Mỗi đêm rừng, nằm nhớ về con tôi lại thấy ân hận vô cùng vì đã trót đánh con. Tôi dằn vặt, đau đáu mãi những năm tháng chiến dịch. Lời hứa mang về chiếc lược cho con cứ in sâu trong lòng tôi. Không một phút giây nào tôi quên nhiệm vụ mà đứa con gái bé bỏng gửi gắm mình. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành kỷ vật thiêng liêng của tình mẫu tử.
Tôi muốn tự tay làm tặng cho con gái bé bỏng của mình một cây lược thật đẹp. Hằng ngày tôi tỉ mỉ mài chiếc ngà voi và đập nhỏ vỏ đạn để làm lược. Tôi còn cẩn thận khắc lên đó những dòng chữ yêu thương để dành tặng cho con. Chiếc lược trở thành động lực, thành niềm tin vững chắc, thành ước mơ về ngày chiến tranh kết thúc, tôi sẽ được trở về, trao tận tay con bé món quà nhỏ này.
Nhưng rồi, chiến tranh tàn khốc, ranh giới giữa sự sống với cái chết thật sự rất mong manh. Trong một trận càn lớn của Mỹ – Ngụy, tôi không may bị thương nặng. Biết mình phải hy sinh, tôi không có gì hối tiếc vì đã chiến đấu hết sức mình cho độc lập của Tổ Quốc. Trước lúc lìa xa cõi đời, hình ảnh lá cờ độc lập hiện mãi trong đầu tôi. Dưới lá cờ đó, là bé Thu - là đứa con gái bé bỏng đang trông đợi tôi về. Tôi đã kịp đưa cho anh Ba – người bạn chiến đấu của mình cây lược ngà với hi vọng rằng anh sẽ thay tôi trao tận tay cho con bé. Và dường như trong cơn hấp hối, tôi vẫn nghe rõ mồn một tiếng anh Ba bên tai tôi: “Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu”.
Trong giây phút cuối cùng ấy, tôi thấy bé Thu mỉm cười nắm lấy tay tôi, tôi cũng mỉm cười hạnh phúc chìm vào giấc ngủ dài.
Khi phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, trong phần giải quyết vấn đề, bạn em đã nêu được một nhận xét:
“Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ”
b. Triển khai 1 ý trong đề tài trên thành một đoạn văn hoàn chỉnh.