Viết mở bài và kết bài giúp mình với ạ
Viết mở bài và kết bài giúp mình với ạ
(...) Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi! Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi, Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời. Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm! Gió bao lần từng trận gió thương đi, – Mà kỷ niệm, ôi, còn gọi ta chi… (Xuân Diệu, trích Tương tư chiều, Tuyển tập Tự lực văn đoàn, tập III, NXB Hội nhà văn, 2004) |
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người. Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. (...) Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? (Nguyễn Bính, trích Tương Tư, Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, Hà Nội, 1986) |
Viết bài văn nghị luận (khoảng600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn thơ trên
Đầu tiên, cả hai đoạn thơ đều chung một nỗi lòng tương tư, nhưng cách thể hiện lại mang đậm dấu ấn cá nhân. Ở đoạn thơ của Xuân Diệu, nỗi nhớ của nhân vật trữ tình dâng tràn, mãnh liệt và đầy xúc cảm. Các câu thơ như "Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh" hay "Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!" là những lời bộc bạch trực tiếp, mạnh mẽ, dường như tuôn trào từ sâu thẳm trái tim. Từng từ "nhớ" được nhắc lại liên tục, tạo nên nhịp điệu dồn dập, thể hiện một nỗi nhớ không thể kìm nén. Nỗi tương tư trong thơ Xuân Diệu mang màu sắc hiện đại, mạnh mẽ và đậm chất cá nhân, thể hiện rõ con người ông – một "ông hoàng của thơ tình" trong phong trào Thơ mới.
Ngược lại, đoạn thơ của Nguyễn Bính lại mang vẻ đẹp giản dị, dân dã, đậm chất đồng quê. Nỗi nhớ trong thơ ông không được thốt lên một cách trực tiếp mà ẩn hiện qua hình ảnh "giàn giầu" và "hàng cau" – những biểu tượng quen thuộc trong đời sống thôn quê Việt Nam. Những câu thơ như "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, / Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?" vừa gần gũi, mộc mạc, vừa thấm đượm nỗi buồn sâu lắng. Nỗi tương tư trong thơ Nguyễn Bính mang một vẻ đẹp truyền thống, gắn bó với làng quê và những phong tục, tập quán quen thuộc.
Bên cạnh sự khác biệt về cách biểu đạt, giọng điệu thơ của hai nhà thơ cũng mang những đặc trưng riêng. Thơ Xuân Diệu với nhịp điệu dồn dập, lời thơ như lời kêu gọi mãnh liệt, thể hiện một tình yêu cháy bỏng, sôi nổi. Trong khi đó, thơ Nguyễn Bính nhẹ nhàng, chậm rãi, như một lời tự sự thầm kín, mang nét buồn man mác. Điều này phản ánh rõ phong cách nghệ thuật của hai nhà thơ: Xuân Diệu là đại diện tiêu biểu cho sự cách tân của Thơ mới, trong khi Nguyễn Bính lại được mệnh danh là "nhà thơ của đồng quê" với lối thơ giàu chất trữ tình dân gian.
Tuy nhiên, cả hai đoạn thơ đều có điểm chung là sự chân thành và sâu sắc trong cảm xúc. Cả Xuân Diệu và Nguyễn Bính đều khắc họa nỗi tương tư như một trạng thái không thể cưỡng lại, một căn bệnh mà người yêu không thể thoát ra. Trong thơ Xuân Diệu, tương tư là sự khao khát, sục sôi, còn trong thơ Nguyễn Bính, tương tư là sự chờ mong, lặng lẽ mà da diết.
Tóm lại, hai đoạn thơ trên tuy khác nhau về phong cách, giọng điệu và cách biểu đạt, nhưng đều là những bức tranh tuyệt đẹp về nỗi tương tư trong tình yêu. Nếu như Xuân Diệu đem đến cho người đọc một cảm giác mãnh liệt, nồng nàn, thì Nguyễn Bính lại dẫn dắt ta trở về với sự giản dị, mộc mạc của tình yêu nơi làng quê. Cả hai đều góp phần làm phong phú thêm cho dòng chảy văn học Việt Nam và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai.
Anh/Chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) so sánh hình ảnh người mẹ trong hai đoạn thơ sau:
Đoạn 1:
Lặng lẽ bàn tay lặng lẽ đưa
Đắp từng miếng vá ấm con thơ
Những mong đời mẹ, đời con mãi
Gần gũi nhau cùng mối chỉ thưa...
Mẹ ơi! chiếc áo con đã rách
Con biết làm sao trở lại nhà
Để mẹ vá giùm? con thấy lạnh
Gió lùa nỗi nhớ thấm vào da.
1940
(Tế Hanh, Chiếc rổ may, in trong Tuyển tập Tế Hanh, NXB Văn học, 1987, trang 83)
Đoạn 2:
Nhà đông anh em, áo thường xuống gấu
Mẹ còn chắt chiu từng mụn vá vai
Đâu những tối mẹ ngồi khâu lại áo
Khi bên thềm xào xạc gió heo may
Ngày tháng thoi đưa, con đã cao hơn mẹ
Chẳng hồn nhiên khi lòng con biết nghĩ
Áo dài hơn, tuổi mẹ cũng nhiều hơn
Dẫu vá vai, màu bạc, chỉ sờn
Nhưng trong áo ấm đường khâu mẹ vá
Yêu mẹ nhiều nên áo cũ con thương
(Lưu Quang Vũ, Áo, in trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội Nhà văn, 2021, trang 11)
*Chú thích:
-Tác giả 1: - Tế Hanh (1921 - 2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh, là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Ông xuất hiện ở chặng cuối của phong trào Thơ Mới với những bài thơ mang theo nỗi buồn và tình yêu quê hương. Ông được biết đến nhiều nhất với những bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết. Bài thơ Chiếc rổ may được sáng tác năm 1940.
- Tác giả 2: - Lưu Quang Vũ (1948- 1988) sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Lưu Quang Vũ là nhà thơ và cũng là nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
Trong hai đoạn thơ của Tế Hanh và Lưu Quang Vũ, hình ảnh người mẹ hiện lên thật sự đậm sâu và cảm động, tuy nhiên mỗi bài thơ lại có một cách tiếp cận khác nhau, phản ánh tình mẫu tử qua những khía cạnh khác nhau của đời sống.
Đoạn thơ của Tế Hanh (1940) khắc họa hình ảnh người mẹ hiền lành, cần mẫn và yêu thương con vô bờ. Mẹ không nói nhiều, không có những lời nói hoa mỹ, mà tình yêu mẹ thể hiện qua những hành động giản dị nhưng đầy ý nghĩa. Câu thơ "Lặng lẽ bàn tay lặng lẽ đưa" đã thể hiện rõ sự âm thầm trong những công việc hằng ngày của mẹ. Mẹ dùng chính bàn tay ấy để vá từng miếng áo, đắp lên thân thể con những tấm vá ấm áp, như muốn giữ cho con cái không phải chịu lạnh, vừa thể hiện tình thương, vừa là sự hy sinh thầm lặng. Những miếng vá, tuy đơn sơ nhưng mang đậm tình cảm, chính là cách mẹ "gắn kết" những vết thương của con cái, là hình ảnh tượng trưng cho tình mẹ bao la, bất chấp khó khăn vất vả. Mẹ mong ước "đời mẹ, đời con mãi / Gần gũi nhau cùng mối chỉ thưa", mong tình yêu thương ấy luôn bền chặt và vững vàng. Bằng những hình ảnh giản dị nhưng đầy ắp yêu thương, Tế Hanh đã vẽ nên một bức tranh gia đình đầy ấm áp.
Còn trong đoạn thơ của Lưu Quang Vũ, hình ảnh người mẹ cũng được miêu tả qua những chi tiết gần gũi, nhưng lại gắn liền với sự trưởng thành của con. Mẹ không còn là người mẹ trẻ trung, sức khỏe dồi dào như trước mà giờ đây, qua thời gian, mẹ đã già yếu, vết thương của cuộc đời cũng đã thể hiện qua chiếc áo cũ sờn. Tuy nhiên, tình thương của mẹ vẫn không thay đổi, vẫn lặng lẽ thể hiện qua những hành động giản dị như "chắt chiu từng mụn vá vai". Đoạn thơ “Ngày tháng thoi đưa, con đã cao hơn mẹ / Chẳng hồn nhiên khi lòng con biết nghĩ” thể hiện sự thay đổi của thời gian, khi con lớn lên và dần nhận ra những hi sinh của mẹ. Tình yêu thương của mẹ vẫn luôn bền bỉ, dù tuổi mẹ đã lớn, áo mẹ đã bạc màu. Hình ảnh mẹ vá áo, dù vất vả, nhưng lại thể hiện sự hy sinh không ngừng nghỉ, và đó chính là tình yêu thương vô điều kiện của mẹ dành cho con.
Tuy hai đoạn thơ có cách thể hiện khác nhau, nhưng điểm chung lớn nhất là cả hai đều khắc họa sự hi sinh vô bờ bến của người mẹ. Tế Hanh nhìn nhận tình mẫu tử qua sự vất vả trong công việc hàng ngày, qua những hành động giản dị, lặng lẽ; còn Lưu Quang Vũ lại thấy mẹ qua sự thay đổi của thời gian, sự trưởng thành của con và hình ảnh người mẹ già với những hi sinh vẫn không ngừng nghỉ. Cả hai tác giả đều bày tỏ tình cảm sâu sắc đối với người mẹ, một tình yêu không bao giờ vơi cạn dù thời gian có trôi qua.
Bằng những hình ảnh giản dị nhưng rất đỗi sâu sắc, cả hai tác phẩm đều mang đến cho người đọc những cảm nhận thấm thía về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ, đồng thời cũng là lời nhắc nhở con cái về sự biết ơn, trân trọng mẹ trong suốt cuộc đời.
Trong bài thơ “Tổ Quốc nhìn từ biển”, sáng tác năm 2009, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến viết về Tổ Quốc:
“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không?...”
(Nguyễn Việt Chiến, Tổ Quốc nhìn từ biển, in trong “Tổ Quốc nhìn từ biển”, NXB Phụ Nữ 2015)
Trong bài thơ “Tổ Quốc gợi tên mình”, sáng tác năm 2011, nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai viết về Tổ Quốc:
“Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình
Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá
Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả
Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây
Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi!
Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ
Thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã
Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông…”
(Nguyễn Phan Quế Mai, Tổ Quốc gọi tên mình, in trong “Tổ Quốc gọi tên mình”, NXB Phụ Nữ 2015)
Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hình tượng Tổ Quốc trong hai đoạn thơ trên.
Tổ Quốc là hình ảnh thiêng liêng và bất diệt trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Trong hai bài thơ “Tổ Quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến và “Tổ Quốc gợi tên mình” của Nguyễn Phan Quế Mai, hình tượng Tổ Quốc được thể hiện với những cách nhìn, cảm nhận khác nhau nhưng đều hướng đến một điểm chung: sự gắn bó, tình yêu và sự hy sinh của dân tộc.
Trong bài thơ "Tổ Quốc nhìn từ biển", Nguyễn Việt Chiến đã khắc họa Tổ Quốc qua hình ảnh biển cả, nơi luôn gắn liền với sự hi sinh, thử thách, và là mảnh đất thiêng liêng mà chúng ta phải gìn giữ. Tác giả mở đầu bằng hình ảnh “Tổ quốc đang bão giông từ biển” để ám chỉ những khó khăn, những cuộc đấu tranh mà đất nước phải đối mặt, đặc biệt là đối với các vấn đề biển đảo như Hoàng Sa, Trường Sa. Câu thơ “Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa” thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa đất nước và biển đảo, nơi mà những chiến sĩ đã đổ máu để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Bài thơ cũng diễn tả sự thao thức của cả dân tộc trước hiểm họa từ bên ngoài với câu thơ “Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả”. Biển, qua đó, không chỉ là không gian địa lý mà còn là biểu tượng của những thử thách gian nan, nơi dân tộc Việt Nam phải bảo vệ chủ quyền.
Tuy nhiên, hình ảnh biển trong bài thơ của Nguyễn Việt Chiến không chỉ là sự lo lắng, mà còn là sự kiên cường. Biển là nơi bao trùm những khó khăn nhưng cũng là nơi khẳng định sức mạnh và lòng quyết tâm của dân tộc. Những câu thơ “Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn” diễn tả sự vất vả, gian lao nhưng không hề yếu đuối, mà trái lại là một sức sống mãnh liệt, bền bỉ.
Ngược lại, trong bài thơ “Tổ Quốc gợi tên mình” của Nguyễn Phan Quế Mai, hình ảnh Tổ Quốc lại được khắc họa mạnh mẽ hơn qua tiếng gọi từ biển, nơi mà “Tổ quốc gọi tên mình” qua tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa. Biển trong bài thơ này không chỉ là không gian vật lý mà còn là âm vang của lịch sử, của những hy sinh vô cùng lớn lao. Câu thơ “Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông” gợi nhớ đến những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc đấu tranh bảo vệ biển đảo, bảo vệ Tổ Quốc. Hình ảnh biển trong bài thơ của Nguyễn Phan Quế Mai mang tính sử thi, khắc họa một Tổ Quốc bất khuất, không bao giờ ngừng nghỉ dù có phải trải qua bão táp, sóng gió. Tổ Quốc ở đây được coi là một thực thể luôn sống động, liên tục chuyển động và gọi tên những người con yêu nước.
Cả hai bài thơ đều sử dụng hình ảnh biển để biểu tượng hóa cho Tổ Quốc, nhưng trong khi Nguyễn Việt Chiến miêu tả biển như một không gian đầy thử thách, khắc nghiệt, thì Nguyễn Phan Quế Mai lại gợi lên một biển cả hào hùng, khẳng định sự trường tồn và bất khuất của Tổ Quốc qua lịch sử. Biển trong cả hai bài thơ không chỉ là mảnh đất gắn liền với chủ quyền lãnh thổ mà còn là nơi chứng kiến những hy sinh, thử thách để bảo vệ Tổ Quốc.
Tuy khác nhau trong cách thể hiện, nhưng cả hai tác giả đều khẳng định một điều: Tổ Quốc luôn vững vàng trong mọi hoàn cảnh, dù trong bão giông hay sóng gió. Biển là nơi gắn bó sâu sắc với Tổ Quốc, và cũng là nơi thể hiện sức mạnh và tình yêu vô bờ bến của dân tộc Việt Nam.
Bạo lực gia đình diễn ra ở cả phương diện tinh thần lẫn thể xác, với những mức độ khác nhau. Nhẹ thì mắng chửi, nạn nhân bị đẩy ra đường; nặng hơn thì bị đánh đập, hành hạ, thậm chí có thể dẫn đến tàn phế hoặc tử vong. Những kẻ gây ra tội ác lại chính là người từng "đầu gối tay ấp", cùng sống chung dưới một mái nhà nên một khi xảy ra mâu thuẫn, bạo hành, nạn nhân thường rất khó đề phòng. Điều đáng nói, tuy đây là vấn nạn đã xảy ra từ nhiều năm nay nhưng có tới 1/3 số gia đình mỗi khi xảy ra vấn đề bạo lực gia đình thường không biết phải làm gì; khoảng 25% gia đình cho rằng bạo lực gia đình là việc riêng của hàng xóm, không nên can dự vào Câu 1. Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? Câu 2. Theo tác giả,vì sao nạn nhân của bạo lực gia đình lại rất khó đề phòng? Câu 3. Con số khoảng 25% gia đình cho rằng "bạo lực gia đình là việc riêng của hàng xóm,không nên can dự vào" gợi cho anh chị suy nghĩ gì? Câu 4. Anh chị có đồng tình với cách xử lý bạo lực gia đình chỉ bằng con đường hoà giải không? Vì sao?
Nhân vật Trương Ba trong vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ khát khao: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Hãy việt bài văn nghị luận trình bày quan điểm của anh/chị về vấn đề trên.
.
.
.
Mình thực sự đg cần gấp 1 bài để tham khảo....Mng giúp với ạ=((((((
Anh/ chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về vấn đề tuổi trẻ và sự lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai .
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bàn về vấn đề tuổi trẻ và sự lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai
gợi ý: Dàn ý chi tiết
Mở bài: giới thiệu
Thân bài:
Ý 1 giải thích;
Ý 2 bàn luận: phân tích ý nghĩa, tác dụng của vấn đề
+lý lẽ
+dẫn chứng
+phê phán
+nêu bài học nhận thức và hành động
Ý 3 mở rộng vân đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác
Kết bài:
+đánh giá khái quát vấn để
+thể hiện niềm tin
Lập dàn ý viết đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ phân tích hình tượng người mẹ trong tác phẩm "Người mẹ điên" của Vương Hằng Tích.