- Chiến tranh là thứ mang lại nhiều đau thương và nó khiến bao nhiêu sinh mạng bị tước mất . Hiện nay khu vực biển đảo và biên giới của chúng ta đang dần dần bị kẻ địch xâm chiếm , với tinh thần yêu nước và tư tưởng cao cả của Bác hồ chúng ta phải càng noi theo và mãi mang tâm trí đó .Mục tiêu đầu tiên chúng ta phải có chính sách , một lòng đoàn kết dù có xảy ra những gì . Chúng ta phải có sự đề phòng và ý thức phòng khi kẻ địch đến . Tiếp đến chúng ta phải biết tập hợp các lực lương đang có và huấn luyện một cách kĩ càng và thấu đáo . Tuy chúng ta không có nhiều đội binh nhưng chỉ cần một lòng là sẽ giải quyết được tất cả , Việt Nam không nhiều binh lính , cũng chả nhiều cứu hộ nhưng Việt Nam đầy ắp trong mình nhiều sự đoàn kết và không chịu khất phục . Chúng ta nên vận dụng trí óc và sức mạnh để đánh giặc.
Mục tiêu đối ngoại cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo đảm lợi ích quốc gia, như: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, hạnh phúc, tự do của nhân dân. Người nói “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”(1).
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao Việt Nam phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trước hết, trên hết. Qua đối ngoại, Người muốn gửi đến các nước trên thế giới thông điệp khẳng định: 1) Việt Nam là một nước độc lập; 2) Việt Nam thực hành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hữu nghị với các nước “tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào các công việc nội bộ, bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hoà bình”(2).
Trong thời kỳ đổi mới, mục tiêu đối ngoại vì lợi ích của quốc gia, được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, qua chủ trương đối ngoại của Đảng “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”(3). Sau đó, được khẳng định cụ thể, trực tiếp trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)(4), và trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI, ở cả hai văn kiện, Đảng đều xác định mục tiêu đối ngoại là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc,..”(5). Việc nêu lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu trực tiếp của đối ngoại, có nghĩa: bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ(6).
Chủ quyền quốc gia trên biển - là một bộ phận hữu cơ của chủ quyền quốc gia. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo vệ lợi ích quốc gia - một mục tiêu đối ngoại cốt lõi theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước việc Trung Quốc tuyên bố yêu sách đường 9 đoạn “Đường lưỡi bò”, dựa trên quyền lịch sử, chiếm đến hơn 80% diện tích Biển Đông (bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), và thực hiện hàng loạt hành động “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”(7), thì vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo - bảo vệ lợi ích quốc gia của Việt Nam, đang đặt ra một cách cấp bách.
Quán triệt mục tiêu đối ngoại theo tư tưởng Hồ Chí Minh và phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, cần thấm nhuần quan điểm có tính nguyên tắc - chủ quyền biển, đảo là lợi ích quốc gia - thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng thay mặt quốc gia Việt Nam, tuyên bố “nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(8); toàn thể nhân dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cái “vạn biến” là phải linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Theo Hồ Chí Minh: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(9).
Hội nghị Trung ương 4 khóa X (15-11-2007) ra Nghị quyết số 09-NQ/TW, Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, xác định nhiệm vụ và giải pháp nhằm tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển để khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng kinh tế biển, đồng thời bảo đảm tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đề ra yêu cầu nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đối ngoại về biển theo luật pháp và thông lệ quốc tế(10).
Ngày 21-6-2012, Quốc hội ban hành Luật biển Việt Nam. Theo Luật biển Việt Nam, thì Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Luật biển Việt Nam tái khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Luật biển Việt Namquy định các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế (Khoản 2 và 3, Điều 4).
Đó là những văn kiện khẳng định tính pháp lý về chủ quyền biển, đảo - lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam; khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; quy định nhiệm vụ của công dân và Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc.
Về tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh quan niệm đối ngoại là một mặt trận, cần mở rộng và tranh thủ mọi lực lượng, hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại “muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”(11).
Với trong nước, hoạt động đối ngoại phải dựa trên cơ sở sức mạnh bên trong - sức mạnh toàn dân, gồm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất nước - đó là sức mạnh tổng hợp quốc gia (là thực lực). Muốn thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải có thực lực: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(12).
Cơ sở quan trọng hàng đầu cho sự đồng thuận, và phát huy sức mạnh toàn dân bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, đó là Việt Nam có đầy đủ chứng cứ pháp lý và lịch sử, phù hợp Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) về chủ quyền biển, đảo. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo của nước ta(13).
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn quy tụ, phát huy sức mạnh nhân dân, tạo thực lực mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần: 1) Tuyên truyền, giáo dục để mọi người dân hiểu biết đầy đủ về chủ quyền lãnh thổ trên biển; 2) Nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân trong việc bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc; 3) Củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước; 4) Xây dựng lực lượng bảo vệ biển, đảo đủ mạnh; 5) Phát triển kinh tế biển nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng biển, đồng thời bảo đảm thường xuyên an ninh và chủ quyền biển, đảo; 6) Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực để nhân dân biết rõ về các âm mưu, hành động của các thế lực bành trướng xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước ta.
Với bên ngoài, theo quan điểm Hồ Chí Minh “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”(14), những hoạt động của nước ta có muôn nghìn sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ; nhưng phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo, phải vạch rõ những phương pháp và những biện pháp của riêng mình, để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ lớn nhất của nhân dân tiến bộ trên thế giới; nhưng “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(15). Phải thực hành chính sách đối ngoại rộng mở, chính sách mở cửa và hợp tác, chính sách hoà bình và quan hệ tốt; tránh đối đầu, và không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều cấp độ. Trong hoạt động đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá...
Theo Hồ Chí Minh, để tập hợp các lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Biển Đông là tuyến vận tải biển lớn thứ hai thế giới, là nơi có tiềm năng lớn về tài nguyên biển. Do đó, bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông và bảo đảm an ninh Biển Đông là lợi ích chung của nhiều nước trên thế giới, trong đó đặc biệt là các nước lớn.
Đối với tổ chức ASEAN, ngoài 4 nước thành viên (Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei) có các tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông, liên quan trực tiếp đến yêu sách “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc, Biển Đông còn là chủ đề quan trọng gắn với xây dựng môi trường hòa bình và ổn định cho phát triển và phồn vinh của khu vực - một lợi ích hàng đầu của các nước Đông Nam Á. Điều đó được thể hiện qua việc ASEAN đã có nhiều Tuyên bố về tình hình Biển Đông. Năm 2002, ASEAN cùng Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); ngày 20-7-2012, Ngoại trưởng các nước ASEAN đã đạt được một Tuyên bố về nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông, tạo cơ sở để đảm bảo các bên liên quan tôn trọng, tuân thủ trong hành xử ở Biển Đông và khẳng định các hành vi vi phạm những nguyên tắc này sẽ ảnh hưởng tới ASEAN(16). Hiện nay, ASEAN đã sẵn sàng tiến tới ký kết một Bộ quy tắc ứng xử (COC) với Trung Quốc, đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực(17).
Như vậy, các nước và các tổ chức quốc tế nói chung, tổ chức ASEAN nói riêng, đều có chung lợi ích chiến lược trong việc bảo vệ an ninh và tự do hàng hải trên Biển Đông; mặt khác, việc chủ quyền biển, đảo của Việt Nam được bảo đảm bằng cơ sở pháp lý và lịch sử, phù hợp Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, nên cộng đồng quốc tế đều cảm nhận được tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là mẫu số chung, là “điểm đồng”, là điều kiện để tập hợp lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, cần phải: 1) Thực hiện các kênh ngoại giao với nhiều hình thức, nhằm làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử, và sự phù hợp Công ước Liên hợp quốc của chủ quyền biển, đảo Việt Nam; biết rõ sự thật lịch sử về việc chủ quyền biển, đảo Việt Nam đã và đang bị xâm phạm; 2) Thể hiện công khai, minh bạch lập trường của Việt Nam tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); sự kiên trì của Việt Nam về chủ trương giải quyết hòa bình, không sử dụng vũ lực trong các tranh chấp chủ quyền biển, đảo; 3) Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ cần được quốc tế hóa; cần đưa tranh chấp phi lý xâm phạm chủ quyền biển, đảo Việt Nam ra các thiết chế luật pháp quốc tế; 4) Phát huy xu thế toàn cầu hóa, xu thế hòa bình, phát triển, để đẩy mạnh các hợp tác quốc tế song phương và đa phương, nhằm bảo vệ tự do hàng hải trên biển Đông và khai thác nguồn lợi kinh tế Biển Đông, chia sẻ trách nhiệm, lợi ích, qua đó tạo lợi ích đan xen về kinh tế Biển Đông với các nước; 5) Đối với tổ chức ASEAN, cần thể hiện sâu sắc hơn tư cách thành viên chủ động, tích cực và trách nhiệm cao; nhằm góp phần củng cố đoàn kết, tăng cường quan hệ hữu nghị với các thành viên, giữ vững và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực; củng cố mối quan tâm chung của ASEAN là hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy sớm xây dựng bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)(18); 6) Trên quan điểm độc lập, tự chủ, phát triển quan hệ, và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của tất cả các nước lớn, trên cơ sở lợi ích chung về an ninh, tự do hàng hải, lợi ích kinh tế trên Biển Đông. Đặc biệt chú ý quan hệ với Hoa Kỳ - một cường quốc hàng hải, đã nhiều lần tuyên bố họ có lợi ích ở Biển Đông. Lợi ích của Hoa Kỳ gắn với hòa bình, ổn định và việc không quốc gia nào được độc chiếm, chi phối Biển Đông. Trong quan hệ với các nước lớn, cần quán triệt tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, là “sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hoà bình”(19); 7) Trong quan hệ với bên ngoài “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tránh những hành động nóng vội; tránh tự ty mà bỏ lỡ thời cơ ; tránh ảo tưởng, trông chờ vào bên ngoài; phải tỉnh táo để có những đối sách khôn khéo trước mắt và lâu dài; vận dụng hiệu quả nghệ thuật ngoại giao tâm công của Hồ Chí Minh - thuyết phục người, chinh phục người, tranh thủ người bằng lẽ phải và đạo lý(20).
Thực tế lịch sử cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại đã phát huy hiệu quả to lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Ngày nay, trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bên cạnh các lợi thế, việc nghiên cứu sâu sắc tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể hiện nay, là việc làm có ý nghĩa thiết thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to, tiếng mới lớn”. Nội lực là nhân tố quyết định sức mạnh của đất nước, cùng với đó ngoại giao chính là yếu tố quan trọng tạo nên địa vị, vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta luôn quan tâm và đề ra chủ trương, đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp qua từng thời kì. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang đứng trước những vận hội cũng như thách thức mới, trong quá trình hoạch định và lãnh đạo thực hiện đường lối ngoại giao, Đảng ta cần quán triệt các vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời cần linh hoạt, sáng tạo để giải quyết những vấn đề đặt ra cho đất nước, nhất là vấn đề biên giới lãnh thổ mà hiện nay vấn đề cấp bách là tranh chấp ở khu vực biển Đông.
Thực tiễn cho thấy hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm nhất quán về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong mọi hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Tại Đại hội VI, Đảng ta đã khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội XI, chủ trương tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, trong đó tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại được Đảng ta khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước”. Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm nêu trên, Đại hội XI đã đề ra những định hướng lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới. Trong đó, định hướng tổng thể, bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu. Định hướng cụ thể được nhấn mạnh: Về quan hệ song phương, tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới, đồng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ chốt. Là thành viên ASEAN, Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Đặc biệt, thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Như vậy, đường lối đối ngoại xuyên suốt của Việt Nam là độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Với tinh thần đó, khi giải quyết vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên hết và cố gắng tìm giải pháp hòa bình có thể.
Vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu cùng với lực lượng tàu hùng hậu, thời điểm cao điểm lên tới hơn 100 tàu, trong đó có cả tàu có vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Các hành động phun vòi rồng có cường độ mạnh, dùng tàu đâm vào tàu công vụ và dân sự của Việt Nam đã khiến nhiều tàu hư hại, và gây thương tích. Đây là hành động vi phạm chủ quyền biên giới lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm Luật pháp Quốc tế, UNCLOS, DOC và đe dọa đến hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải ở Biển Đông. Những việc làm sai trái và lời lẽ ngang ngược, phía Trung Quốc đã lộ rõ ý đồ từng bước chiếm biển Đông, hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò”, bành trướng, bá quyền trong khu vực và thế giới.
Trước tình hình phức tạp của vấn đề biển Đông, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã có đường lối đối ngoại khôn khéo, mềm mỏng nhưng kiên quyết, lấy độc lập, tự chủ là yếu tố hàng đầu để giải quyết mọi vấn đề. Cụ thể:
Cần phải ứng phó một cách kiên quyết, bền bỉ, linh hoạt, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhằm giữ được chủ quyền của ta, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước vừa duy trì được cục diện quan hệ với Trung Quốc.
Cần tiếp tục chủ động, kiên trì đẩy mạnh đồng bộ đấu tranh trên thực địa, đấu tranh ngoại giao, công tác thông tin tuyên truyền và đấu tranh dư luận tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và trong nhân dân; đồng thời tranh thủ cao nhất sự ủng hộ quốc tế đối với chủ quyền lãnh thổ của ta, lập trường chính nghĩa của ta.
Để thực hiện đường lối đối ngoại đó, Việt Nam đã có nhiều biện pháp đấu tranh quyết liệt. Qua các cuộc tiếp xúc, điện đàm, cũng như trong nội dung Công hàm của Bộ Ngoại giao, ta đã kiên quyết phản đối Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bác bỏ quan điểm, hành vi sai trái của phía Trung Quốc, khẳng định và nhấn mạnh khu vực Giàn khoan Hải Dương-981 và các tàu của Trung Quốc hoạt động nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; hoạt động của Giàn khoan và các tàu bảo vệ của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam được quy định trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông 2002 (DOC), vi phạm Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Và Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa; quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng kinh tế đặc quyền và thềm lục địa được xác định phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Đề nghị hai bên giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán và các biện pháp hòa bình phù hợp luật pháp quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển. Mặt khác, chúng ta tích cực hợp tác với các nước trong khu vực để tìm tiếng nói chung, cùng tìm ra giải pháp giải quyết và mục tiêu trước hết là đoàn kết giữa các nước trong vấn đề tranh chấp biển Đông trước sự gây hấn ngày càng hung hăng của Trung Quốc. Việc hợp tác không chỉ trên lĩnh vực ngoại giao mà còn trên nhiều lĩnh vực khác. Vì Đảng và Nhà nước ta hiểu rõ ảnh hưởng, tổn thất mà chiến tranh gây ra cho nhân dân ta trong hai cuộc chiến tranh cứu quốc. Tuy nhiên, không thể chỉ giải quyết vấn đề trên bằng con đường ngoại giao, mặt khác chúng ta tích cực tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng, an ninh nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Phát biểu trong bài phỏng vấn, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã khẳng định: “Chính sách đối ngoại của chúng ta rất rõ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Việt Nam muốn xây dựng quan hệ với mọi nước trên thế giới. Với nước bạn láng giềng Trung Quốc, phương châm quan hệ được lãnh đạo 2 nhà nước thống nhất đưa ra là phương châm "4 tốt" và "16 chữ vàng" rất tốt đẹp. Trong quá trình xây dựng củng cố mối quan hệ đó luôn có những khó khăn, thách thức và Việt Nam luôn thật tâm mong muốn và nỗ lực xây dựng những chữ vàng đó. Sự quý giá của những chữ đó được so sánh với vàng. Nhưng thực tế còn những thứ quý hơn vàng, như kim cương chẳng hạn. Có nhiều thứ quý hơn vàng, quý hơn kim cương, nhưng không có gì quý hơn độc lập tự do - 4 chữ Bác Hồ đã dạy chúng ta”.
Độc lập tự do chính là nền tảng để giải quyết các vấn đề đối ngoại của Việt Nam. Trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn lấy hòa bình, nhân nghĩa làm đạo lý, không có tư tưởng xâm lược, bành trướng. Các cuộc đấu tranh của nhân dân ta là để tự vệ, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền đất nước, độc lập của dân tộc. Ngay từ cuộc đấu tranh chống quân Nam Hán, quân Tống, quân Mông – Nguyên, quân Minh, quân Thanh xâm lược... tinh thần ấy đã được khẳng định. Ngày nay, thực tiễn hơn 80 năm qua, Đảng ta, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quán triệt quan điểm thực hiện đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, trong đó yếu tố độc lập, tự chủ phải được đặt lên hàng đầu, coi đây là nhân tố bất biến trong cách mạng Việt Nam.
Những kinh nghiệm đó cho thấy rằng, hiện nay chúng ta vẫn tiếp tục giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông bằng đường lối đối ngoại trên. Điều này giúp chúng ta tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế, tạo ra sức mạnh ngoại lực để có thể giải quyết vấn đề bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc. Bên cạnh các hoạt động đối ngoại tích cực như trên, trong công tác đối nội chúng ta cũng cần phải bình tĩnh, tỉnh táo, tránh các hoạt động quá khích, vượt ngoài tầm kiểm soát, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài xuyên tạc, công kích ta. Đồng thời tăng cường công tác đối ngoại nhân dân, đưa tin về phản ứng của các tổ chức quần chúng, cung cấp thông tin và vận động bạn bè quốc tế phản đối các hành vi sai trái của Trung Quốc, ủng hộ lập trường của Việt Nam. Cung cấp thông tin có định hướng cho các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể, góp phần tạo sự đồng thuận, niềm tin vào các chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Tăng cường công tác giáo dục thế hệ trẻ về chủ quyền an ninh quốc gia thông qua nhiều hình thức hiệu quả hơn. Trước xu hướng toàn cầu hóa, việc nâng cao nhận thức, tư duy và tình cảm của thế hệ trẻ về tình yêu đất nước và tinh thần dân tộc càng đóng vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia.
Bên cạnh đó, đây cũng chính là thời điểm mà Việt Nam cần đẩy mạnh công tác giáo dục thế hệ trẻ về chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông thông qua nhiều biện pháp hữu hiệu hơn như tổ chức theo định kỳ các hội nghị, hội thảo, diễn đàn và thi viết bài về Biển Đông ở các trường học, ở các cơ sở Đoàn Thanh niên, Hội Học sinh sinh viên, các buổi sinh hoạt chính trị, thi tìm hiểu về Trường Sa, Hoàng Sa trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các phương tiện truyền thông cũng cần tăng cường công tác giáo dục tuyên truyền giúp thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc hơn về Biển Đông, đồng thời cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời nhằm tránh tình trạng bàng quan, mơ hồ trước những diễn biến chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Quán triệt đường lối của Đảng, Trường Chính trị Nghệ An đã tiến hành tổ chức các buổi sinh hoạt chính trị, diễn đàn của Đoàn Thanh niên để nâng cao hiểu biết về chủ quyền biển đảo Việt Nam. Đồng thời với thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến cho học viên cũng như quần chúng nhân dân về vấn đề biển Đông, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của mỗi công dân đối với chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, tránh tình trạng bị kẻ thù xúi giục, kích động. Đó cũng là hoạt động cụ thể, thiết thực nhất trong việc góp phần cùng Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới, quốc gia, lãnh thổ của đất nước, thể hiện trách nhiệm, niềm tin của thế hệ trẻ, thế hệ của hiện tại và tương lai tươi sáng của đất nước.
câu hỏi mk gi thíu nhé:HÃY LIÊN HỆ ĐẾN BÀI HỌC VỀ SỰ ĐOÀN KẾT CỦA 3 LẦN CHỐNG QUÂN MÔNG-NGUYÊN THẮNG LỢI