Quá trình phát triển văn học trong 15 năm: có 2 bộ phận (bộ phận văn học vô sản và bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản nằm trong phạm trù ý thức hệ tư sản). Có 3 thời kỳ:
1. Thời kỳ 1930-1935: Mở đầu là sáng tác thơ văn gắn liền với cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao nhất là Xô Viết Ngệ Tỉnh.
Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn: Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và thơ mới.
Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kỳ này phát triển hơn và xác định rõ ràng hơn về phương pháp thể tài.
2. Thời kỳ 1936-1939
2.1. Văn học vô sản khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ cộng sản say mê lí tưởng, mang một tinh thần nhân đạo mới mẻ:
Thể loại phóng sự, ký sự phát triển.
Thơ ca cách mạng phát triển. Một loạt nhà thơ cách mạng đã xuất hiện: sóng Hồng, Lê Ðức Thọ, Xuân Thủy, Tố Hữu.
Văn học cách mạng thời kỳ này đánh dấu một bước tiến triển mới mẻ của văn học vô sản theo hướng hiện đại hóa.
2.2:- Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc:
Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực phê phán Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố
Vấn đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác phẩm hiện thực phê phán: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố...
Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của văn học hiện thực phê phán thời kì này
2.3:- Văn học lãng mạn tư sản, tiểu tư sản vẫn tiếp tục phát triển song nó phân hóa theo các hướng khác nhau.
Bên cạnh chủ đề cũ chống lễ giáo phong kiến và đề cao hạnh phúc cá nhân, Tự lực văn đoàn còn nêu chủ đề mới: chủ trương cải cách bộ mặt nông thôn và cải thiện đời sống cho nông dân Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Ðạo.
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đề cập tới hình tượng người chiến sĩ Ðoạn tuyệt, Ðôi bạn của nhà văn Nhất Linh
Thơ mới vẫn tiếp tục trên đà phát triển. Cái Tôi vẫn được khai thác đến phút chót. Thời kì này, Xuân Diệu nổi lên như một hiện tượng văn học. Cái Tôi của các nhà thơ mới càng đi sâu vào thế giới yêu đương thì càng cô đơn lạc lõng và càng sợ sệt Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề (Nguyệt Cầm-Xuân Diệu).
3. Thời kỳ 1939-1945:
3.1 Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Thơ ca cách mạng trong tù và thơ ca cách mạng ngoài nhà tù phát triển.
Văn học vô sản nói nhiều tới tương lai, một tương lai rực rỡ đang tiến gần. Thơ Tố Hữu trưởng thành nhanh chóng như tập Từ ấy. Tập Nhật kí trong tù Hồ Chí Minh cũng ra đời trong thời kì này.
Thời kì này thơ tuyên truyền kết hợp với thơ trữ tình cách mạng càng thấm thía, sâu sắc hơn.
Hàng loạt bài chính luận của đồng chí Trường Chinh xuất hiện trên các báo chí của Ðảng vào thời kì này cũng có nhiều giá trị văn học.
Văn học vô sản trong những năm tiền khởi nghĩa đã góp phần quan trọng vào cuộc vận động cách mạng của Ðảng, đập tan chế độ thuộc địa, giành thắng lợi trong những ngày tháng 8 lịch sử 1945.
3.2 Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:
Có nhà văn thì chết (Vũ Trọng Phụng);
Có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như Ngô Tất Tố.
Có nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Công Hoan viết tiểu thuyết Thanh Ðạm.
Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời:Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển, ...
Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống tăm tối của người nông dân Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng được các nhà hiện thực đề cập một cách sâu sắc Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao.
Các nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp nhân dân lao động.
3.3 Văn học lãng mạn: cái Tôi bế tắc, cực đoan, có sự phân hóa.
_ Tự lực văn đoàn:
Mang một tâm trạng. Nhất Linh, Khái Hưng đưa ra một chủ nghĩa vô luân, đó là tác phẩm Bướm trắng của Nhất Linh và tác phẩm Thanh đức của Khái Hưng.
Thạch Lam miêu tả những sinh hoạt nâng lên thành nghệ thuật như nghệ thuật ăn tết, Hà Nội 36 phố phường.
Thời kì này Thế Lữ-thành viên của Tự lực văn đoàn đi vào truyện trinh thám đường rừng, truyện ma quỷ như truyện Cái đầu lâu.
Thời kì này Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tư sản, tiểu tư sản trong văn xuôi. Cái ngông của Nguyễn Tuân xuất hiện, đó là một thứ ngông lịch lãm tài hoa. Ở Nguyễn Tuân còn xuất hiện chủ nghĩa xê dịch, đó cũng là thứ xê dịch chân thành và những rung cảm rất tinh tế.
_ Thơ mới:
Khủng hoảng nghiêm trọng. Ðủ các thứ biểu hiện hỗn loạn. Thơ điên, thơ loạn, thơ say càng phát triển mạnh. Ðủ các thứ đạo: đạo của Giatô, của Thích Ca, của Trang Tử. Tất cả đều là những hình thức bế tắc cùng đường của chủ nghĩa cá nhân
Thời kì này nhóm Xuân thu nhã tập xuất hiện. Người ta làm thơ bằng một thứ ngôn ngữ đối lập với tiếng nói của đồng loại, với ý thức kiên quyết không cho ai hiểu được mình:
Mi thơm chanh trĩu nặng buồn da
Rượu tóc loang tháng đậm mùa ngà
B. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT | TOP |
1. Ðổi mới rõ rệt theo khuynh hướng hiện đại hóa.
Phá bỏ hệ thống ước lệ của văn học cổ điển. Khuynh hướng hiện đại hóa đã chi phối việc chọn lựa đề tài, chủ đề, việc xây dựng hình tượng, cốt truyện, thi pháp, việc sử dụng các hình thức tu từ, mỹ từ và ngôn ngữ văn học nói chung.
Văn học được lái dần đúng hướng trên tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng...
Văn xuôi và tiểu thuyết được nâng lên địa vị quan trọng nhất trong đời sống văn học và thật sự phát triển mạnh làm thay đổi diện mạo văn học.
Xuất hiện công chúng rộng rãi đông đảo. Công chúng có nhu cầu thẩm mỹ mới là một điều kiện thúc đẩy văn học phát triển.
Sự phát triển phong phú về thể loại:
Tiểu thuyết
Truyện ngắn
Bút kí
Phóng sự
Kịch
Nhiều xu hướng, trào lưu văn học phát triển mạnh. Tình hình đó đưa đến sự phát triển của ngành phê bình, lí luận và nghiên cứu.
2. Hình thành và phát triển với hai bộ phận phân biệt rõ rệt về ý thức hệ: văn học tư sản, tiểu tư sản và văn học vô sản.
Văn học cách mạng vô sản: tinh thần vững chắc và đoàn kết của tinh thần vô sản, của tính đảng cộng sản.
Ðặc điểm bao quát của văn học lãng mạn là tính chất phức tạp của nó.
Văn học hiện thực phê phán và tiếng nói của tầng lớp tiểu tư sản nghèo, các nhà văn hiện thực có điều kiện gần gũi với đời sống nhân dân