Gọi ST1 là a , ST2 là b
=> \(a+b=\frac{7}{15}\)
Nếu thêm vào ST1 1/3
=> \(\left(a+\frac{1}{3}\right)+b=a+b+\frac{1}{3}=\frac{7}{15}+\frac{1}{3}=\frac{12}{15}=\frac{4}{5}\)
gọi st 1 là a , gọi st 2 là b
=> a+b = 7/15
neu them vao so thu nhat 1/3
=> (a +1/3) + b = a +b +1/3 =7/15+1/3 =12/15 =4/5
chúc cậu học giỏi
Bài làm
Trẻ em trên đất nước ta đều muốn làm tráng sĩ như Thánh Gióng. Em cũng thích câu chuyện về vị Phù Đổng Thiên Vương này và thỉnh thoảng lại kể lại cho em trai em nghe. Cu cậu nghe đi nghe lại câu chuyện này có khi đến hàng trăm lần mà vẫn chưa chán và luôn hỏi: “Chị ơi tại sao Thánh Gióng vươn vai một cái là thành tráng sĩ mà sáng nào em cũng vươn vai mấy lần nhưng vẫn bé tí thế này?”. Em chỉ cười đáp: “Bao giờ gặp Thánh Gióng chị sẽ hỏi cho”. Không ngờ, em đã gặp này trong mơ và được nghe những lời khuyên hết sức bổ ích. Em vẫn nhớ mãi về giấc mơ này.
Trong mơ, em thấy mình đang ở một ngôi làng nhỏ, ngôi nhà bên cạnh em im ắng lạ thường. Em định gõ cửa thì thấy một điều kì lạ xảy ra: tay em xuyên qua cánh cửa. em bèn bước vào. Rồi em nhìn thấy một bà mẹ đang ngồi cạnh cái nôi trong có đứa bé. Lúc đầu, em không biết đó là ai nhưng sau đó em biết là Thánh Gióng lúc nhỏ khi người mẹ than thở: “Trời ơi, sao tôi khổ thấy này? Chúng tôi chỉ có một đứa con trai nhưng đã lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói!”/
Đúng lúc đó, cậu bé bật đứng dậy, đòi mẹ gọi sứ giả vào. Cậu xin sứ giả roi sắt, ngựa sắt, giáp sắt để lên đường ra trận đánh giặc. Bà con hàng xóm láng giềng giúp đỡ cậu bằng cách góp cơm gạo, quần áo cho cậu, tiễn cậu đến tận cổng làng.
Em quan sát sự phi thường của Thánh Gióng khi người ra chiến trận đánh giặc, thầm phục ngài vì đã dùng hết sức lực của mình để cứu nước. Dường như dòng máu yêu nước đã chảy trong ngài là một cậu bé lên ba.
Khi Thánh Gióng đánh thắng quân giặc, ngài cởi áo giáp, chuẩn bị bay về trời thì em chạy đến. Khi bắt gặp ánh mắt khó hiểu của em, Thánh Gióng lên tiếng:
- Cháu có điều gì muốn hỏi ta phải không?
- Dạ vâng ạ! – Em đáp – Ngài làm thế nào mà lại có sức mạnh phi thường như vậy ạ?
- À, đó là do rất nhiều điều. Thứ nhất, ta không chỉ là con của nhân dân Văn Lang vĩ đại mà còn là con của thần thánh. Ta đã lớn lên tại đất Việt, ta biết ơn bố mẹ ta và những người láng giềng tốt bụng, luôn luôn sẻ chia, giúp đỡ nhau.
Thứ hai, hãy luôn về phe chính nghĩa thì cháu sẽ luôn chiến thắng. Đứng về phe ác. Ở đó, cháu sẽ bị nhiễm thói xấu xa, độc ác.
Thứ ba, hãy chăm tập luyện, vận động và giữ vững sự khỏe khoắn cả về thể xác lẫn tinh thần. Hãy giữ cho tâm hồn mình thật trong sạch.
Và điều cuối cùng: Cháu thử xem ai đã cho ta cái ăn, cái mặc? đó là nhân dân. Nhưng nếu chỉ một người tì chắc ta sẽ không bao giờ được như thế này. Phải có sự đoàn kết, cháu ạ. Và đoàn kết là sức mạnh phi thường nhất, cũng là chìa khóa của thành công.
Hãy ghi nhớ lời ta. Kết hợp cả bốn điều trên, ta sẽ có sức mạnh vô song, không ai địch nổi. Hãy nhớ nhé!
Em chưa kịp nói lời cảm ơn thì “Reeng… Reeng…”, cái đồng hồ báo thức kêu lên. Em ngẫm nghĩ về lời khuyên của Phù Đổng Thiên Vương và thấy nó thật là có ích. Bắt đầu từ hôm nay, em sẽ áp dụng những lời khuyên của ngài vào cuộc sống.
SAU KHI ĐÁNH GIẶC ÂN, THÁNH GIỐNG VỀ TRỜI TÂU VỚI NGỌC HOÀNG CÔNG VIỆC MÌNH LÀM DƯỚI TRẦN GIAN. EM HÃY KỂ LẠI CHUYỆN ĐÓ.
Bài làm
Sau khi đánh giặc Ân, Thánh Gióng phi ngựa sắt bay về trời. Vừa đến cổng trời, Thánh Gióng đã được các vị thần đón tiếp ân cần và dẫn vào sân rồng. Vừa bước vào sân, Thánh Gióng đã thấy Ngọc Hoàng ngồi trên ngai vàng uy nghi lộng lẫy. Hai bên là hai hàng chư Thần, chư Tướng lẫm liệt, oai nghiêm.
Thánh Gióng quỳ trước bệ rồng tâu:
- Hạ thần xin kính chúc Ngọc Hoàng vạn tuế. Và xin Ngọc Hoàng cho thần được tỏ bày những việc thần đã làm dưới trần gian.
- Trẫm miễn lễ. Khanh hãy bình thân và hãy kể lại cho trẫm và đình thần nghe những việc đó.
Thánh Gióng đứng dậy và bắt đầu kể:
Muôn tâu Ngọc Hoàng! Từ khi được Ngọc Hoàng sai xuống trần gian đầu thai để giúp dân trừ nạn, thần đã đi từ làng này đến xã khác, nhưng vẫn chưa tìm được người ưng ý. Một hôm, đến làng Phù Đổng, thần thấy dân làng nói nhiều đến vợ chồng ông lão phúc hậu, chăm làm đầu làng. Ngày ngày vợ ông lão ra đồng trồng cấy, còn ông lão thì lên rừng kiếm củi. Lúc rỗi rãi hai vợ chồng lại đi thăm mọi người, sẵn sàng giúp đỡ những người ốm đau, hoạn nạn. Vì thế dân làng rất quý mến. Tuy phúc hậu, nhưng vợ chồng ông lão đã sáu mươi tuổi mà vẫn chưa có một mụn con. Nghe nói vậy thần vui mừng khôn xiết. Biết chắc là sáng hôm đó, bà lão ra đồng làm việc, thần liền biến thành một vết chân rất to, khác thường. Quả nhiên một lúc sau, bà lão đã ra đồng làm việc. Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy vết chân đó. Bà suy nghĩ y=trầm ngâm và đặt bàn chân mình lên ướm thử xem hơn kém bao nhiêu. Không ngờ sau buổi đó, bà thụ thai. Ngày tháng qua đi một cách nhanh chóng, kể từ hôm đó đã mười hai tháng rồi.
Vào một buổi sáng mùa xuân mát mẻ, bà lão đã sinh ra một đứa con trai khôi ngô bụ bẩm. Đứa bé đó chính là Thần. Bố mẹ thần rất sung sướng. Bà con hàng xóm cũng kéo đến chia vui. Nhưng rồi, một nỗi lo âu đến với mọi người. Đã ba tuổi rồi mà thần vẫn chưa biết nói biết cười và cũng chẳng biết đi. Lo buồn nhưng không ai ghét bỏ thần. Mọi người vẫn thương yêu thần như trước.
Bấy giờ, có giặc Ân sang xâm chiếm bờ cõi nưới Việt. Sức giặc rất mạnh. Vua Việt lo sợ, dân chúng hoảng loạn. Ngọn lửa quân giặc đốt bốc cháy ngút trời, CHúng đi đến đâu là đốt sạch và tàn bạo hơn, chúng giết sạch kể cả cụ già, em nhỏ. Chúng để lại sau lưng những tiếng kêu khóc thảm thiết. Trước tình cảnh đó, Vua nước Việt cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu dân cứu nước.
Một hôm, nghe tiếng loa của sứ thần, tự nhiên thần bật lên tiếng nói:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con thưa chuyện.
Mẹ thần ngạc nhiên và nừng rỡ, vội đi mời sứ giả, Sứ giả vào, thần nói:
- Ông về tâu với Vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một bộ giáp sắt. Ta sẽ phá tan lũ giặc này.
Mừng rỡ, sứ giả về tâu vua. Vua cho các thợ ngày đêm làm gấp những thứ thần cần. Và cũng từ hôm đó, thần ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ. Cha mẹ thần không đủ tiền gạo nuôi thần. Bà con từ khắp nơi đổ về. Người gánh gạo, người gánh cà, người mang vải gom góp lại giúp cha mẹ thần nuôi thần. Ai cũng muốn thần lớn nhanh để đánh giặc.
Rồi một hôm, sứ giả đã đem các thứ thần cần đến. Thần vươn vai biến thành một tráng sĩ mặt khôi ngô tuấn tú, thân hình vạm vỡ, chân tay rắn chắc. Thần mặc giáp sắt rồi quỳ xuống từ biệt cha mẹ và bà con xóm làng. Mọi người lưu luyến tiễn đưa thần. Thần cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa. Thần thúc ngựa phi thẳng tới chỗ quân giặc, vung gậy sắt xuống đầu bọn chúng. Giặc chết như rạ, tướng giặc túng thế liền cưỡi ngựa bỏ chạy. Như rắn mất đầu, quân gặc giẫm đạp lên nhau mà chạy. Thần tiếp tục truy kích giặc, giáng cho chũng những đòn chí mạng để chúng từ bỏ hẳn mộng xâm lăng. bỗng roi sắt của thần bị gãy, thần bèn nhổ những cụm tre bên đường quật vào giặc. Cùng với thần, bà con các nơi, kẻ cầm gậy, người cầm cuốc hăng hái xông lên đuổi giặc. Đuổi đến chân núi Ninh Sóc thì không còn bóng tên giặc nào. Lên đỉnh núi, thần bèn cởi giáp sắt để lại, cưỡi ngựa sắt bay về trời chờ lệnh của Ngọc Hoàng phán bảo.
Khi Thánh Giống kể, Ngọc Hoàng và cả đình thần chăm chú lắng nghe. Nghe xong, Ngọc Hoàng vui vẻ hài lòng, vuốt râu phán bảo:
- Khanh thật là giỏi, khanh đã không phụ lòng tin của trẫm và không phụ lòng yêu mến của muôn dân. Khanh đã lập được công lớn. Trẫm nhất trí với lời thĩnh nguyện của muôn dân phong cho khanh chức Phù Đổng Thiên Vương và cho phép dân Việt hàng năm cứ đến tháng tư lại mở hội để nhớ mãi chiến công này.
- Nói xong, Ngọc Hoàng cho mang ngọc tửu, đào tiên ban thưởng Thánh Gióng và truyền cho ,ọi người về chuẩn bị cho lễ mừng công của Gióng.