Tham khảo!
Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế.
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở láng Gióng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có lấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng, thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, nhưng mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Thuở ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân.
Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận.
Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời.
Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.
Tham khảo ( bánh chưng bánh giày)
Bài này chỉ tham khảo
Có rất nhiều câu chuyện cổ hay mà trong trương trình Ngữ văn lớp Sáu mà em đã được học từ đầu năm đến giờ như truyện Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm, … Nhưng câu chuyện khiến em thích nhất là truyện Bánh chưng bánh giầy. Hôm nay em sẽ kể về câu chuyện này cho cô và các bạn cùng nghe.
Các bạn có biết không, ngày xưa, vào đời Vua Hùng Vương thứ 6, lúc về già, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhưng vì vua có tới hai mươi người con trai, ngôi báo lại chỉ có thể truyền cho một người duy nhất. Sao một hồi suy nghĩ lâu, vua đã có cách để chọn ra người xứng đáng với ngôi vua.
Nhân dịp đầu Xuân, vua mời họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Ai trong số các con tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ dân Trời Đất, tổ tiên có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho”.
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được vua truyền ngôi cho. Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Lang Liêu đang tỏ ra rất băng khoăn. Chàng là một người có tính tình hiền hậu, chăm chỉ, rất mực hiều thảo. Nhưng vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ nên chàng lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người, ăn mãi không chán. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành.”
Lang Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Chàng liền làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật dẻo thơm làm những bánh vuông vức, có nhân thịt đậu, để tượng hình Đất. Lại lấy lá xanh bọc ngoài, chẻ lạt buộc lại cẩn thận, rồi cho vào nồi lớn đổ nhiều nước, đun thật kĩ. Cùng với gạo nếp, chàng đồ xôi, giã nhuyễn, làm thành những chiếc bánh tròn trặn, xinh xắn để tượng trương cho hình Trời,…
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem những của ngon vật lạ đến bày trên mâm cỗ của mình. Ôi thôi, bao nhiêu là sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Trong khi đó trên mâm cổ của Lang Liêu thì chỉ bày hai loại bánh. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Lang Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của từng loại bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn cho họp mọi người lại, truyền rằng:”Những chiếc bánh tròn này tượng trương cho hình Trời, ta đặt tên cho loại bánh này là bánh Giầy. Còn những chiếc lá tượng trưng cho hình Đất, ta đặt tên cho bánh này là bánh Chưng. Bánh có thịt mỡ, đậu xanh, lá dong,… là tượng hình cầm thú, cây cỏ muôn loài,…; lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngũ ý nhắc người ta phải biết sống thân ái, đùm bọc lẫn nhau. Lang Liêu dâng lễ vật rất hợp ý ta. Vậy ta sẽ truyền ngôi vua cho con.”
Và cũng từ đó, người dân nước ta rất chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Mỗi khi Tết đến, nhà nhà làm bánh Chưng, bánh Giầy để dâng cúng Trời Đất và tổ tiên.
Trong những câu chuyện cổ luôn gắn liền với lịch sử, với một phong tục tạp quán của dân tộc Việt Nam ta. Ở truyện Bánh chưng bánh giầy cũng như thế. Truyện đã cho ta biết rằng dân rất chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi, và việc tại sao chúng ta lại làm bánh chưng bánh giầy mỗi dịp tết đến xuân về. Em rất thích chuyện bánh Chưng, bánh Giầy. Em mong muốn những câu chuyện cổ sẽ luôn được mọi người biết tới và trân trọng chúng như em vậy.