Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Flower Butterfly

hãy nói những gì bạn biết về Newton

oOo _ Virgo _ oOo
30 tháng 12 2017 lúc 20:47

Isaac Newton nổi tiếng là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất từng sống. Điều ít được biết hơn là đức tin sâu đậm của ông với Đức Chúa Trời và niềm tin của ông rằng nghiên cứu khoa học đem đến hiểu biết lớn hơn về Chúa-Đấng Sáng Tạo của vũ trụ.

Isaac Newton sinh ra ở Woolhorpe, Lincolnshire, nước Anh vào lễ Giáng Sinh năm 1642. Trong đêm đông lạnh giá ấy, đứa bé bệnh tật sinh non xem ra không có hi vọng sống. Tuy nhiên, dần dần, em bé trở nên đủ mạnh để sống. Nhưng những năm đầu của Isaac là một giai đoạn đầy khó khăn. Mẹ của ông trở thành góa phụ chỉ hai tháng trước khi Isaac được sinh ra. Ngay cả khi được bà ngoại giúp đỡ, người mẹ vẫn gặp khó khăn chăm sóc cho Isaac bên cạnh việc chăm lo cho nông trại khi mà cuộc nội chiến nước Anh đang diễn ra khốc liệt xung quanh họ.

Vài năm sau, mẹ ông lấy một mục sư từ vùng North Witham gần đó, nhưng Isaac ở lại Woolthorpe với bà ngoại mình. Dù vậy, khi ông lớn lên ông đi thăm mẹ mình thường xuyên hơn. Ông rất hào hứng khi đọc sách từ thư viện đầy sách của cha dượng mình, cũng như đọc kinh thánh thường xuyên.

Isaac đi học tại Học Viện Nhà Vua (King’s College) ở gần vùng Grantham. Thay vì chơi các trò chơi ngoài trời như các cậu bé khác, ông thích làm những mô hình các vật như cối xay gió hay xe kéo. Các mô hình này không những có tỉ lệ như thật, mà những bộ phận máy cũng thực sự hoạt động.

Mẹ Isaac lại trở thành góa phụ lần nữa khi ông 14 tuổi. Isaac phải rời trường để chăm sóc nông trại gia đình giúp mẹ và 3 em nhỏ của mình. Tuy nhiên, Isaac nhớ da diết việc đi học của mình và mẹ ông nhận thấy điều ấy. Khi Học Viện Nhà Vua đề nghị cho miễn phí tiền học vì năng lực ông và hoàn cảnh nghèo, Isaac đã quay lại và hoàn tất việc học của mình. Các thầy giáo và những học viên khác rất ấn tượng bởi kiến thức Kinh Thánh của cậu bé.

Dự định trở thành một mục sư

Sau đó Isaac đến Học Viện Trinity ở Đại Học Cambridge với dự định trở thành mục sư của giáo hội Anh. Một lần nữa, cuộc sống không dễ dàng với ông. Bởi vì ông không có khả năng trả học phí, ông phải làm việc nhiều giờ mỗi ngày phục vụ bữa ăn và làm những việc khác cho các giáo sư để trả tiền học. Kiến thức về Kinh Thánh của Isaac tiếp tục gây ấn tượng cho mọi người xung quanh.

Vào thời đó những ý tưởng của cái học giả Hy Lạp cổ đại vẫn thống trị những gì được dạy trong khoa học, và những phát hiện khoa học mới phần lớn bị phớt lờ. Điều này khiến Isaac Newton rất bất bình vì ông tin chắc rằng mọi ý tưởng trong khoa học phải được thử nghiệm và chỉ được công nhận nếu những điều hữu ích của nó được chứng minh. Ông cam kết theo phương pháp thực nghiệm của khoa học.

Isaac tốt nghiệp năm 1665, ngay trước đợt dịch hạch “Cái Chết Đen” bùng phát và quét qua London. Mọi trường đại học bị đóng cửa khi dịch hạch hoành hành. Trong lúc này, Isaac trở về nông trang của mình, hiện giờ đang được quản lý bởi người em cùng mẹ khác cha của mình. Ông tiếp tục việc học và nghiên cứu của mình về định lý nhị thức, ánh sáng, kính thiên văn, vi phân và thần học. Nghe nói là sau khi thấy trái táo rơi trong vườn, ông tìm hiểu về trọng lực, nhưng không tìm ra được lời giải cho đến vài năm sau. (Cũng lưu ý là nhiều chuyên gia nghi ngờ câu chuyện quả táo này. Họ nói câu chuyện này được nhắc tới lần đầu từ triết gia phản đối và hoài nghi tôn giáo người Pháp, Voltaire, người được cho là đã nghe nó từ cháu nội của Newton.)

Cuộc cách mạng trong toán học

Newton áp dụng định lý nhị thức vào chuỗi vô hạn và từ đó phát triển vi phân, một dạng mới cách mạng trong toán học. Lần đầu tiên chúng ta có thể tính chính xác diện tích bên trong một hình gồm các đường cong, và tính tốc độ thay đổi của một lượng vật lý so với một lượng khác. Một hệ thống toán học tương tự được phát triển bởi nhà toán học người Đức Gottfried Leibniz. Trong một thời gian dài đã có sự mập mờ lớn, người này tố cáo người kia ăn cắp thành tựu của mình. Đó là một giai đoạn mệt mỏi cho cả hai. Nhiều năm sau, nó đã được công nhận là cả hai đã phát triển vi phân độc lập gần như cùng lúc. Không ai gian lận cả.

Newton dùng lăng kính để cho thấy ánh sáng mặt trời được tạo thành bởi tất cả các màu của cầu vồng. Điều này chứng minh rằng các ý tưởng của Hy Lạp cổ đại về ánh sáng là sai.

Quang học

Khi Đại Học Cambridge mở cửa lại năm 1667, Isaac Newton trở lại học Thạc Sĩ, trong khi giảng dạy và nghiên cứu.

Newton dùng lăng kính để cho thấy ánh sáng mặt trời được tạo thành bởi tất cả các màu của cầu vồng. Điều này chứng minh rằng các ý tưởng của Hy Lạp cổ đại về ánh sáng là sai. Vào thời của Newton, thiên văn học bị kìm hãm vì các thấu kính của kính thiên văn tách ánh sáng ra làm nhiều màu, khiến nhìn không rõ. Dù không phải là người đầu tiên nghĩ đến chuyện dùng gương cong thay cho thấu kính, Newton là người đầu tiên thành công trong việc xây dựng kính thiên văn dựa trên nguyên tắc này – một nguyên tắc vẫn được dùng ngay nay trong nhiều kính thiên văn.

Hội Hoàng Gia

Năm 1672, Newton trở thành một thành viên của Hội Hoàng Gia – một nhóm các nhà khoa học cam kết với phương pháp khoa học thực nghiệm. Ông trình bày một trong những kính thiên văn mới cùng với những khám về ánh sáng của mình. Hội Hoàng Gia thiết lập một hội đồng lãnh đạo bởi nhà vật lý Robert Hooke để đánh giá những phát hiện của Newton. Hooke là một nhà khoa học làm việc cho Hội Hoàng Gia để đánh giá những phát minh mới. Tuy nhiên, Hooke đã sẵn có những ý tưởng của mình về ánh sáng và chậm chấp nhận những sự thật mà Newton đã tìm ra. Điều này làm Newton ngạc nhiên và thất vọng, khiến ông từng nghĩ đến việc không báo cáo những phát hiện sau này của mình.

Dù có người nghĩ rằng Newton quá nhạy cảm với những đánh giá của người khác về công trình của mình, ông chỉ đơn giản lo ngại rằng việc bảo vệ những phát hiện cũ sẽ làm mất thời gian của ông trong việc tìm kiếm những phát hiện mới.

Ảnh hưởng của chính trị

Isaac Newton sống vào thời mà chính trị, tôn giáo và giáo dục không tách rời. Vua Charlesđệ nhị yêu cầu tất cả những ai dạy ở nơi như Học Viện Trinity, nơi đào tạo mục sư của giáo hội Anh, cũng phải được phong chức mục sư giáo hội Anh sau bảy năm. Kể cả những người như Newton chỉ dạy toán học và khoa học, không dạy thần học.

Mặc dù là một Cơ Đốc nhân thành tín, Newton không hoàn toàn đồng ý với tất cả các giáo điều của Giáo Hội Anh. Vậy nên lương tâm không cho phép ông nhận chức.1 Ông cũng chống đối mạnh mẽ việc các nhà chính trị nhúng tay vào những việc của tôn giáo và giáo dục. Cách duy nhất để Newton có thể giữ việc là được đích thân nhà vua miễn trừ cho trường hợp của mình. Trước đây nhiều người đã từng xin điều này nhưng đều bị từ chối.

Vậy nên Newton đi xuống phía nam đến London sáu tuần để xin nhà vua miễn trừ cho trường hợp của mình. Trong thời gian ở London, ông làm quen với nhiều nhà khoa học khác trong Hội Hoàng Gia. Những người trước đây chỉ biết đến ông qua thư bảo vệ những khám phá của mình đã hiểu lầm sự tự tin của ông là ngạo mạn. Sự nôn nóng muốn làm tiếp công trình mới của ông bị hiểu lầm là nóng tính. Giờ khi họ biết ông là một người thân thiện và tế nhị như thế nào, họ ra sức giúp ông. May mắn thay, cho Newton và cho nền khoa học, nhà vua chấp nhận lời thỉnh cầu của Newton được tiếp tục làm ở Học Viện Trinity mà không cần phải được phong chức.

Tập trung vào trọng lực

Vào thời của Newton, nhiều người mê tín hoặc lo sợ những việc họ không hiểu, như sự xuất hiện của sao chổi, một điều được xem như là dấu hiệu của thảm họa đang tới. Ngay cả những nhà khoa học cũng thường nghĩ rằng chuyển động của các hành tinh và chuyển động của vật thể trong trái đất là hai vấn đề khác nhau. Ngược lại, Newton lập luận rằng vì cùng một Đức Chúa Trời sáng tạo nên các tầng trời lẫn dưới đất, nên cùng một qui luật tự nhiên được áp dụng mọi nơi.

Năm 1684, Newton một lần nữa bắt đầu xem xét trọng lực. Ông phát triển lý thuyết về trọng lực toàn vũ trụ, sử dụng định luật đảo nghịch bình phương. Ông cũng phát triển ba định luật về chuyển động và chứng minh bằng toán học rằng những định luật đó đúng là cùng được áp dụng trên các tầng trời lẫn dưới đất. Đức tin của ông đã tập trung những suy nghĩ của ông vào hướng đi đúng.

Khi Newton đang nghiên cứu chuyển động của các hành tinh, ông thấy khá rõ ràng bàn tay của Chúa đang làm việc. Ông viết rằng:

“Hệ thống đẹp nhất của mặt trời, các hành tinh, và các sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ ý định và sự tể trị của một Đấng trí tuệ… Đấng này tể trị mọi vật, không phải như là linh hồn của thế gian, nhưng là Chúa của tất cả, và vì sự tể trị của Ngài mà Ngài sẽ được gọi là “Chúa Toàn Năng” Παντοκράτωρ [Pantokratōr ở 2 Cô-rinh-tô 6:18], hay “Chủ của muôn vật”… Thần Tối Cao là Đấng vĩnh hằng, vô tận và tuyệt đối hoàn hảo.2

Trái với sự tin kính là vô thần trong suy nghĩ và thờ cúng thần tượng trong hành động. Chủ nghĩa vô thần thật là vô nghĩa và đáng khinh với nhân loại đến độ nó chẳng bao giờ có nhiều người xưng nhận.3

Một lần nữa Newton gặp khó khăn với người cạnh tranh cũ của mình Robert Hooke. Một số nhà khoa học tin rằng định luật đảo nghịch bình phương có thể được áp dụng, nhưng họ không thể chứng minh được rằng điều này sẽ tạo ra quỹ đạo hình ê-líp quan sát được bởi nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler. Dù rằng Hooke khoe khoang điều ngược lại, ông ta cũng thất bại trong việc chứng minh. Ngược lại, Newton thành công, nhưng Hooke vẫn muốn được một phần công.

Hội Hoàng Gia không muốn bị xem là theo phe nào. Điều này, cộng với thiếu thốn về tài chính, khiến hội Hoàng Gia ngần ngại xuất bản quyển sách nổi tiếng của Newton “Principia Mathemaal” (Nguyên tắc toán học). Bạn của Newton, nhà thiên văn học Edmon Halley, giúp ông và dùng tài chính riêng của mình để xuất bản quyển sách gồm ba phần của Newton vào năm 1687. (Halley sau này dùng những định luật của Newton trong việc nghiên cứu sao chổi của mình, vì sao chổi, cũng như những hành tinh, di chuyển theo hình ê-líp vòng quanh mặt trời.)

Sự chống đối của hoàng gia

Sau năm 1685, Newton một lần nữa lại gặp rắc rối với một nhà vua muốn trộn lẫn chính trị, tôn giáo và giáo dục. Nhà vua mới, James đệ nhị, muốn Học Viện Trinity trao tặng bằng cấp cho những người có niềm tin về tôn giáo giống ông ta. Bởi vì không chấp thuận làm theo nên Newton và tám đồng nghiệp ở Học Viện Trinity bị bắt ra trước tòa án cấp cao với tội chống lệnh trên. Dù rằng những lệnh bắt giữ rồi cũng bị bãi bỏ đúng theo luật, chuyện này vẫn gây áp lực rất lớn cho họ.

Những giai đoạn khó khăn và tranh đấu vất vả trong suốt cuộc đời mình không làm cho Isaac Newton trở nên cay đắng. Ngược lại, chính lời viết của Newton cho thấy chúng giúp ông trở nên gần Chúa hơn. “Khó khăn thử thách là những liều thuốc mà Đấng chữa lành khôn ngoan và nhân từ cho vì chúng ta cần chúng; và tỉ lệ, tầng số và mức độ của chúng tùy theo hoàn cảnh chúng ta đòi hỏi. Hãy tin tưởng ở tài năng của Ngài và cám ơn Ngài về đơn bệnh.”

Suy sụp thần kinh

Isaac Newton đại diện Đại Học Cambridge là thành viên quốc hội vào năm 1689 và 1690. Năm 1690, sức khỏe ông suy giảm. Bệnh này có thể là suy sụp thần kinh do nhiều năm làm việc nhiều giờ và chịu đựng quá nhiều căng thẳng. Cuối cùng ông cũng hồi phục. Trong vài năm sau đó, Newton theo đuổi niềm yêu thích lớn khác của mình – học Kinh Thánh. Những sách ông viết bao gồm “Bảng niên đại những vương quốc cổ” và “Nhận xét về những tiên tri của Daniel”.

Năm 1696, nhà nước bổ nhiệm Newton vào vị trí quản lý việc đúc tiền. Ông quản lý việc thay thế những đồng bạc cũ và sứt mẻ bằng những đồng mới, bền hơn, và còn giúp phá vỡ một đường dây làm tiền giả.

Năm 1701, Newton bắt đầu một thời gian ngắn nữa làm thành viên quốc hội. Hai năm sau ông được bầu làm chủ tịch Hội Hoàng Gia. Việc ông được tái cử vào vị trị đó hằng năm cho đến cuối đời cho thấy sự kính mến mà ông có ở các đồng nghiệp khoa học gia. Bây giờ ông đã trở lại với khoa học, Newton xuất bản những công trình ban đầu của mình về ánh sáng. Quyển sách của ông, Ops (Quang Học) chứa cả những khám phá của mình và các gợi ý về phương hướng nghiên cứu tiếp theo. Đất nước ông bắt đầu nhìn nhận những công trình của ông năm 1705 khi ông trở thành người đầu tiên được nhận phong hàm hiệp sĩ cho những thành tựu khoa học.

Newton mất năm 1727 lúc 84 tuổi. Ông được chôn tại tu viện Westminster.

Những đóng góp của Isaac Newton cho khoa học rất nhiều và đa dạng. Chúng bao gồm những ý tưởng cách mạng và những phát minh thực tế. Các công trình về vật lý, toán học và thiên văn học của ông vẫn con quan trọng ngay cả ngày nay. Những đóng góp của ông ở chỉ một lĩnh vực trong đó cũng đủ làm ông nổi tiếng; tập hợp lại, chúng cho thấy ông thật sự xuất chúng. Nhưng Newton vẫn là một người khiêm tốn yêu Chúa, Đấng Cứu Rỗi của mình.

Ông yêu Chúa và tin ở lời Chúa – tất cả mọi điều. Ông viết rằng “Tôi cóđức tin căn bản vào Kinh Thánh là Lời của Chúa, được viết bởi những người được cảm thúc. Tôi học Kinh Thánh mỗi ngày”.

(Lời trích của Newton được lấy từ sách của J.H. Tiner, Isaac Newton, người sáng chế, nhà khoa học và thầy giáo, Mott Media, Milform (Michigan), 1975.)

Tham khảo (thêm vào bởi chủ bút)

Bài viết liên quan

Một số người nói ông theo tư tưởng Arian (nói rằng Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu là tách biệt). Nhưng điều này bị bác bỏ bởi Pfizenmaier, T.C., "Có phải Isaac Newton là người theo Arian?"-Tạp chí về lịch sử các tư tưởng 68(1):57-80, 1997. Một tài liệu bảo vệ suy nghĩ ba ngôi của Newton là luận văn tiến sĩ "Thần học của Ngài Isaac Newton" bởi Van Alan Herd, đại học Oklahoma, 2008. Tại liệu này có nhiều dẫn chứng, kể cả lời từ chính Newton bác bỏ thuyết Ba Ngôi Tách Biệt (tritheism) và ủng hộ Ba Ngôi Trong Một (Triniarian monotheism):

Nói rằng chỉ có một Chúa, Đức Cha của muôn vật, không loại trừ Đức Con và Đức Thánh Linh khỏi ngôi Chúa vì họ đều thực sự bao gồm và mặc nhiên ở trong Đức Cha. … Việc dùng tên của Chúa cho Đức Con hay Đức Thánh Linh như những người tách biệt khỏi Đức Cha không làm họ thành các Chúa khác với Đức Cha. … Vậy nên có thần tính trong Đức Cha, thần tính trong Đức Con và thần tính trong Đức Thánh Linh, nhưng họ không phải là ba thế lực, mà là một.

Clowns
30 tháng 12 2017 lúc 20:47

Bạn tham khảo ở link này :

https://vi.wikipedia.org/wiki/Isaac_Newton

Nguyễn Đặng Linh Nhi
30 tháng 12 2017 lúc 20:48

Isaac Newton Jr. là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim thuật người Anh, được nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất.Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.

Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.

Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu.

Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát.

Năm 2005, trong một cuộc thăm dò ý kiến của Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton vẫn là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.

[A]ȵȟ•βê•ʠǔá♡
30 tháng 12 2017 lúc 20:50

newton là đơn vị dùng để đo lực ( viết tắt N)

được kí hiệu là P

[A]ȵȟ•βê•ʠǔá♡
30 tháng 12 2017 lúc 20:55

còn 

Isaac Newton sinh ra trong một gia đình nông dân. Khi ông ở quãng tuổi từ khoảng 12 đến 17, ông học tại King's School, Grantham, nơi mà ông chỉ học tiếng Latinh và không có Toán. Sau đó, ông rời khỏi trường và đến tháng 10 năm 1659, ông có mặt tại Woolsthorpe-by-Colsterworth, nơi mà mẹ ông, lần thứ hai góa bụa, đang cố gắng khiến ông trở thành một nông dân. Nhưng Newton lại ghét việc đồng áng. Henry Stocks, thày của ông tại King's School, đã thuyết phục mẹ ông cho ông quay trở lại trường học để ông có thể tiếp tục việc học của mình.

Vào tháng 6 năm 1661, Newton được gửi tới Đại học Cambridge để trở thành luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ trường phái Euclid, tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của Roger Bacon và René Descartes. Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian ở nhà, Newton đã có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không được công bố ngay.

Những người có ảnh hưởng đến việc công bố các công trình của Newton là Robert Hooke và Edmond Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề quỹ đạo của một hạt khi bay từ vũ trụ vào Trái Đất với Hooke, Newton đã bị cuốn hút vào việc sử dụng định luật vạn vật hấp dẫn và cơ học của ông trong tính toán quỹ đạo Johannes Kepler. Những kết quả này hấp dẫn Halley và ông đã thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ tháng 8 năm 1684 đến mùa xuânnăm 1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong những công trình nền tảng quan trọng nhất cho vật lý của mọi thời đại, cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa.

Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới thiệu các định nghĩa và ba định luật của chuyển động thường được biết với tên gọi sau này là Định luật Newton. Quyển II trình bày các phương pháp luận khoa học mới của Newton thay thế cho triết lý Descartes. Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lý thuyết động lực học của ông, trong đó có sự giải thích về thủy triều và lý thuyết về sự chuyển động của Mặt Trăng. Để kiểm chứng lý thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đã hỏi nhà thiên văn John Flamsteed kiểm tra xem Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần Sao Mộckhông. Flamsteed đã rất sửng sốt nhận ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các phương trình của Newton được củng cố thêm bằng kết quả quan sát về hình dạng bẹt của Trái Đất tại hai cực, thay vì lồi ra tại hai cực như đã tiên đoán bởi trường phái Descartes. Phương trình của Newton cũng miêu tả được gần đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay lại của sao chổi Halley. Trong các tính toán về hình dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi nằm trong dòng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đã viết ra và giải được bài toán giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.

Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông trình bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của lý luận khoa học. Các quy tắc này được phát biểu trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa như sau:

Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.

Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã hình thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opks (Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho "triết lý về tự nhiên":

Cũng như trong toán học, trong triết lý về tự nhiên, việc nghiên cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng phương pháp phân tích và tổng hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những kết luận tổng quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp chất phức tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và tổng quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lý luận dừng lại ở mức tổng quát nhất. Tổng hợp lại các nguyên nhân chúng ta đã khám phá ra thành các nguyên lý, chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng hệ quả.

Newton đã xây dựng lý thuyết cơ học và quang học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đã để cho John Wallis công bố. Newton đã tìm ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.

Theo quyển Opks, mà Newton đã chần chừ trong việc xuất bản mãi cho đến khi Hooke mất, Newton đã quan sát thấy ánh sáng trắng bị chia thành phổ nhiều màu sắc, khi đi qua lăng kính (thuỷ tinh của lăng kính có chiết suất thay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về ánh sáng của Newton đã xuất phát từ các thí nghiệm mà ông đã làm với lăng kính ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có hình bầu dục chứ không tròn như lý thuyết ánh sáng thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đã lần đầu tiên quan sát thấy các vòng giao thoa mà ngày nay gọi là vòng Newton, một bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà Newton đã không công nhận. Newton đã cho rằng ánh sáng đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết luận trái với lý thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens.

Newton cũng xây dựng một hệ thống hoá học trong mục 31 cuối quyển Opks. Đây cũng là lý thuyết hạt, các "nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ và cứng như các quả bi-a. Ông giải thích phản ứng hoá học dựa vào ái lực giữa các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau 1678) ông thực hiện rất nhiều các thí nghiệm hoá học vô cơ mà không ra kết quả gì.

Newton rất nhạy cảm với các phản bác đối với các lý thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản các công trình cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là Hooke mất. Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa phải chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định ngày tháng cho các sự kiện trong Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của Newton.

Newton đã một mình đóng góp cho khoa học nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch sử của loài người. Ông đã vượt trên tất cả những bộ óc khoa học lớn của thế giới cổ đại, tạo nên một miêu tả cho vũ trụ không tự mâu thuẫn, đẹp và phù hợp với trực giác hơn mọi lý thuyết có trước. Newton đưa ra cụ thể các nguyên lý của phương pháp khoa học có thể ứng dụng tổng quát vào mọi lĩnh vực của khoa học. Đây là điều tương phản lớn so với các phương pháp riêng biệt cho mỗi lĩnh vực của Aristoteles và Aquinas trước đó.

Ngoài việc nghiên cứu khoa học, Newton dùng phần lớn thời gian để nghiên cứu Kinh Thánh, ông tin nhận một Chúa Trời duy nhất là Đấng tạo hóa siêu việt mà người ta không thể phủ nhận sự hiện hữu của ngài khi nhìn ngắm vẻ hùng vĩ của mọi tạo vật.[4][5] Mặc dù được trưởng dưỡng trong một gia đình Anh giáo nhưng vào độ tuổi ba mươi của mình, niềm tin Kitô giáo của Newton nếu công khai ra sẽ không được coi là chính thống.[6]

Cũng có các nhà triết học trước như Galileo và John Philoponus sử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lý thuyết và thực nghiệm, giữa toán học và cơ học. Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì mà ông có thể tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.

TIỂU SỬ

Isaac Newton sinh ra tại một ngôi nhà ở Woolsthorpe, gần Grantham ở Lincolnshire, Anh, vào ngày 25 tháng 12 năm 1642 (4 tháng 1 năm 1643 theo lịch mới). Ông chưa một lần nhìn thấy mặt cha, do cha ông, một nông dân cũng tên là Isaac Newton Sr., mất trước khi ông sinh ra không lâu. Sống không hạnh phúc với cha dượng từ nhỏ, Newton bắt đầu những năm học phổ thông trầm uất, xa nhà và bị gián đoạn bởi các biến cố gia đình. May mắn là do không có khả năng điều hành tài chính trong vai anh cả sau khi cha dượng mất, ông tiếp tục được cho học đại học (trường Trinity College Cambridge) sau phổ thông vào năm 1661, sử dụng học bổng của trường với điều kiện phải phục dịch các học sinh đóng học phí.

Mục tiêu ban đầu của Newton tại Đại học Cambridge là tấm bằng luật sư với chương trình nặng về triết học của Aristotle, nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán học của Descartes, thiên văn họccủa Galileo và cả quang học của Kepler. Ông đã viết trong thời gian này: "Plato là bạn của tôi, Aristotle là bạn của tôi, nhưng sự thật mới là người bạn thân thiết nhất của tôi". Tuy nhiên, đa phần kiến thức toán học cao cấp nhất thời bấy giờ, Newton tiếp cận được là nhờ đọc thêm sách, đặc biệt là từ sau năm 1663, gồm các cuốn Elements của Euclid, Clavis Mathemaa của William Oughtred, La Géométrie của Descartes, Geometria a Renato Des Cartes của Frans van Schooten, Algebra của Wallis và các công trình của François Viète.

Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm 1630, ông phải trở về nhà 2 năm vì trường đóng cửa do bệnh dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính vi phân và tích phân hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp tuyến, độ dài đường cong và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh chóng được hiệu trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông được nhận làm giảng viên của trường năm 1670, sau khi hoàn thành thạc sĩ, và bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều màu sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu kính để hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.

Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672 và bắt đầu vấp phải các phản bác từ Huygens và Hooke về lý thuyết hạt ánh sáng của ông. Lý thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị một tác giả phản bác và cuộc tranh cãi đã dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton vào năm 1678. Năm 1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm 1684, Halley thuyết phục được Newton xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa. Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu.

Năm 1685, chính trị nước Anh thay đổi dưới sự trị vì của James II, và trường Cambridge phải tuân thủ những điều luật phi lý như buộc phải cấp bằng cho giáo chủ không thông qua thi cử. Newton kịch liệt phản đối những can thiệp này và sau khi James bị William III đánh bại, Newton được bầu vào Nghị viện Anh nhờ những đấu tranh chính trị của ông.

Năm 1693, sau nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp nghiêm trọng, Newton từ bỏ khoa học, rời Cambridge để về nhận chức trong chính quyền tại Luân Đôn. Newton tích cực tham gia hoạt động chính trị và trở nên giàu có nhờ bổng lộc nhà nước. Năm 1703 Newton được bầu làm chủ tịch Hội Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức vụ đó trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông. Ông được Nữ hoàng phong bá tước năm 1705. việc ai phát minh ra vi phân và tích phân, Newton và Lepnic không bao giờ tranh luận cả, nhưng các người hâm mộ lại tranh cãi quyết liệt khiến hai nhà khoa học vĩ đại này cảm thấy xấu hổ. Ông mất ngày 31 tháng 3 năm 1727 tại Luân Đôn.

Từ năm 1670 đến 1672, Newton diễn thuyết về quang học. Trong khoảng thời gian này ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu, và một thấu kính hay một lăng kính sẽ hội tụ các dãy màu thành ánh sáng trắng.

Newton còn cho thấy rằng ánh sáng màu không thay đổi tính chất, bằng việc phân tích các tia màu và chiếu vào các vật khác nhau. Newton chú ý rằng dù là gì đi nữa, phản xạ, tán xạ hay truyền qua, màu sắc vẫn giữ nguyên. Vì thế màu mà ta quan sát là kết quả vật tương tác với các ánh sáng đã có sẵn màu sắc, không phải là kết quả của vật tạo ra màu.

Bản sao kính thiên văn phản xạ thứ hai của Newton mà ông đã trình bày cho Hội khoa học Hoàng gia vào năm 1672

Nhờ vào những khám phá trên, Newton nhận ra nguyên nhân gây ra sự sai lệch màu của hình ảnh trên kính viễn vọng khúc xạ thời đó. Ông đã áp dụng nguyên lý của James Gregory để tạo ra kính viễn vọng phản xạ đầu tiên, khắc phục được nhiều nhược điểm về ảnh của kính viễn vọng khúc xạ đồng thời giảm đi đáng kể chiều dài của kính viễn vọng.

Sau khi Newton công bố định luật vạn vật hấp dẫn, giới khoa học lưu truyền câu chuyện quả táo rơi trúng đầu Newton liệu có mối liên hệ giữa khối lượng và khoảng cách của vật thể trong nhà vật lý vĩ đại này. Thế nhưng, nhiều ý kiến cho rằng đó chỉ là câu chuyện thêu dệt, chỉ là một huyền thoại và rằng ông đã không xây dựng lý thuyết về lực hấp dẫn ở bất cứ thời điểm duy nhất nào.

Tuy nhiên, với bản thảo viết tay Memoirs of Life Sir Isaac Newton có từ năm 1752, nhà khoa học William Stukeley (một người quen của Newton) kể lại chi tiết về khoảng khắc khi Newton tìm ra thuyết vạn vật hấp dẫn.

Bài viết của Stukeley kể về những suy nghĩ của Newton về thuyết lực hấp dẫn khi hai người ngồi dưới bóng râm cây táo trong vườn của nhà khoa học, tại Kensington vào ngày 15 tháng 4 năm 1726: [7]

Chúng tôi đã đi vào một khu vườn, và uống trà dưới bóng mát của vườn táo; chỉ có ông, và tôi. Ông nói với tôi, chính ở vị trí này, vào thuở trước khái niệm về lực hấp dẫn đã đến trong tâm trí.Thời điểm đó ông đang ngồi chiêm nghiệm và một quả táo rơi xuống. Ông đã nghĩ tại sao quả táo lại rơi thẳng xuống đất?

Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tài vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?

Tại sao nó không đi ngang, hoặc đi lên ? Nhưng lại liên tục đến trung tâm trái đất ? Chắc chắn, không lý nào khác rằng trái đất đã hút nó. Phải có một sức mạnh hút kéo vật chất & tổng sức mạnh hút kéo trong vấn đề trái đất phải được ở trung tâm đất, không phải trong bất kỳ bên của trái đất do đó đó quả táo này có rơi vuông góc, hay hướng về trung tâm nếu có vấn đề do đó hút lấy vật chất.. nó phải được cân đối với lượng của nó do đó táo rút ra trái đất., cũng như trái đất thu hút sự táo.

John Conduitt, trợ lý của Newton tại Royal Mint và chồng của cô cháu gái của Newton, cũng mô tả các sự kiện khi ông đã viết về cuộc sống của Newton:

Vào năm 1666, ông nghỉ hưu từ Cambridge với mẹ ông ở Lincolnshire. Trong khi đang lang thang trầm tư trong vườn, thì đến hiện ý tưởng rằng sức mạnh của lực hấp dẫn (đã mang quả táo từ trên cây rơi xuống đất) không bị giới hạn trong một khoảng cách nhất định từ trái đất, nhưng sức mạnh này phải trải rộng ra xa hơn là thường nghĩ. Tại sao không cao như mặt trăng nói ông đến mình, và nếu như vậy, mà phải ảnh hưởng đến chuyển động của mặt trăng và có lẽ giữ lại trong quỹ đạo của nó, từ đó ông lao vào tính toán những gì sẽ là kết quả của giả thiết đó.

Trong một việc tương tự, Voltaire đã viết trong cuốn tiểu luận về Epic Thơ (1727), "Sir Isaac Newton đi bộ trong khu vườn của mình, có những suy nghĩ đầu tiên của hệ thống hấp dẫn của ông, khi thấy một quả táo rơi xuống từ một cây."

Newton đã phải vật lộn trong cuối thập kỷ 1660 với ý tưởng rằng lực hấp dẫn tương tác trên mặt đất, trong một tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách; Tuy nhiên ông đã phải mất hai thập kỷ để phát triển các lý thuyết đầy đủ. Câu hỏi đặt ra không phải là liệu trọng lực tồn tại, nhưng liệu nó có mở rộng để cách xa Trái đất mà nó còn có thể là lực giữ mặt trăng trên quỹ đạo của nó. Newton đã chỉ ra rằng nếu lực tương tác giảm tỉ lệ nghịch với khoảng cách, người ta có thể tính toán chu kỳ quỹ đạo của Mặt trăng một cách thống nhất. Ông đoán một loại lực chung là nguyên do của mọi chuyển động quỹ đạo, và do đó đặt tên nó là "lực vạn vật hấp dẫn".

Sau này Newton nêu ra: Mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; Trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau, vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.

Flower Butterfly
30 tháng 12 2017 lúc 21:02

cảm ơn các bạn nha


Các câu hỏi tương tự
Xem chi tiết
lương hiếu
Xem chi tiết
KWS
Xem chi tiết
Minz Ank
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Hà
Xem chi tiết
Võ Hồng Ngọc
Xem chi tiết
nguyễn thị kim ngân
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Linh Hương
Xem chi tiết
nguyễn ngọc bảo linh
Xem chi tiết