Phân tích các đoạn của đoạn trích Nỗi Thương mk của Nguyễn Du
Hỏi đáp
Phân tích các đoạn của đoạn trích Nỗi Thương mk của Nguyễn Du
Sau khi Thúy Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù, Mã Giám Sinh nhờ mối lái dẫn đến, giả danh cưới Kiều làm vợ lẽ. nhưng thực ra y mua nàng về cho nhà chứa của Tú Bà. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng. Nàng rút dao định tự sát, nhưng không chết. Trong cơn mê, Thúy Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát được số đoạn trường nên đành phải nghe lời dỗ dành của Tú Bà ra tạm ở lầu Ngưng Bích. Sở Khanh, tên tay sai của Tú Bà đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiều nhẹ dạ nghe theo, bị Tú Bà bắt về đánh đập rất dã man và buộc nàng phải tiếp khách.
Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 của Truyện Kiều miêu tả tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:
Đoạn 1 (từ Biết bao đến tối tìm Trường Khanh): Giới thiệu cảnh trớ trêu của Kiều.
Đoạn 2 (từ Khi tỉnh rượu đến nào biết có xuân là gì): Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều trong hoàn cảnh sống nhục nhã ở lầu xanh.
Đoạn 3 (từ Đòi phen đến mặn mà với ai): Tả cảnh để diễn tả nỗi cô đơn, đau khổ đến tột cùng của Kiều.
Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật mà không hạ thấp nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình và nói lên được sự đau khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chọn lọc vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết vấn đề nan giải này. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi.
Các hình thức đối xứng trong câu như bướm lả / ong lơi, lá gió / cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.
Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.
Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế'’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội: vì hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh. Do đó, khi thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc xót thương vào ngòi bút.
Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.
Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân
Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.
Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh - Thúy Kiều.
Truyện Kiều được xem là tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam, đây cũng là tác phẩm làm nên tên tuổi cho đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều kể về cuộc đời của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Đoạn trích Nỗi thương mình là một trong những trích đoạn hay nhất của TRuyện Kiều, thể hiện được bi kịch không lối thoát của nàng Kiều.
Đoạn trích Nỗi thương mình kể về những chuỗi ngày đầy đau đớn, ê chề của nàng Kiều khi bị lừa bán vào Lầu xanh. Mở đầu đoạn trích, tác giả Nguyễn Du đã tái hiện lại khung cảnh đầy bát nháo của khách làng chơi và thân phận đầy đáng thương của nàng Kiều.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng những hình ảnh mang tính chất ước lệ như” bướm lả ong lơi” “ cuộc vui đầy tháng”, “trận cười suốt đêm” để diễn tả khung cảnh đầy nhộn nhịp, bát nháo của những người khách làng chơi. Sống trong cảnh lầu xanh tràn đầy tửu sắc ấy, thân phận nàng Kiều càng trở nên nhỏ bé, đáng thương. Bởi con người tài sắc ấy giờ đây cũng như một món hàng hóa buộc phải mua vui cho những kẻ lắm tiền nhiều của ham mê tửu sắc.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Buộc phải sống và thích nghi trong không gian ấy, Thúy Kiều đã vô cùng đau đớn và xót xa. Sự xót xa được đẩy lên đỉnh điểm khi giật mình sau những chén rượu và cuộc sống triền iên nơi lầu xanh. Thúy Kiều thương xót cho thân phận, hoàn cảnh của mình. Đây cũng là một nét mới lạ trông thơ của Nguyễn Du, bởi các tác phẩm trước đó các nhân vật chưa ý thức về nỗi khổ đau, bất hạnh của bản thân.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sau dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Cuộc sống đơn độc nơi lầu xanh khiến Thúy Kiều chẳng thể lương nhờ cũng không thể dãi bày những tâm sự cùng ai, nàng đau xót cho thân phận bất hạnh của mình. Hình ảnh những cánh hoa giữa đường khiến cho độc giả không khỏi xót xa, bởi Thúy Kiều vốn là một người con gái tài sắc nhưng giờ đây thân phận nổi trôi cũng như những cánh hoa tàn giữa đường, mặc người chà đạp, tổn thương. Kiều đã tự ý thức được về bản thân mình nhưng sự tỉnh táo trong nhận thức ấy lại khiến cho nàng càng thêm đáng thương.
“Đòi phen gió tựa hoa kể
Nửa đêm tuyết bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Ở chốn lầu xanh đầy thị phi, vốn chẳng tìm được một người thật lòng, Thúy Kiều làm bạn với thi ca,họa và thơ nhưng cũng chẳng thể làm vơi bớt nỗi sầu. “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu” câu thơ gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng độc đáo, phải chăng trong cảm nhận đầy u sầu của nhân vật trữ tình thì cảnh vật cũng hóa ra tâm trạng, hay vốn cảnh vật luôn có sự đồng, cảm, sẻ chia với con người.
Tâm trạng buồn đau của nàng Kiều thấm đượm vào trong cảnh vật, khiến cho những cảnh vật vốn vô tri cũng có tình, biết buồn trước nỗi buồn của con người.
Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình đầy tinh tế, tác giả Nguyễn Du đã tái hiện đầy chân thực tâm trạng của nàng Kiều, đó là tâm trạng chán chường, ê chề, sống mà còn đau khổ hơn chết
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai”
Như vậy, trong đoạn trích Nỗi thương mình, tác giả NGuyễn Du đã thể hiện được hoàn cảnh đầy bi kịch của Thúy Kiều, cùng với đó là tâm trạng đầy đau khổ, bế tắc của Kiều khi phải sống trong lầu xanh.
Trước khi phải chấp nhận tiếp khách làng chơi, Thuý Kiều đã một lần “tự nhận” là người bội bạc. Đó là với chàng Kim. Do sức ép của đồng tiền, nàng - vì đạo hiếu mà phải bán mình cứu cha. Còn lần này khi vào nhà chứa của Tú Bà, không còn làsức ép của đồng tiền nữa, thay vào đó là áp lực của thần quyền. Ây là bóng ma Đạm Tiên. Đối với Thuý Kiều, bóng ma Đạm Tiên như một sự ám ảnh của định mênh. Gần như người con gái sắc tài toàn vẹn này ở vào bước ngoặt quan trọng nào, bóng ma oan nghiệt ấy cũng hiện ra đúng lúc. Nó vừa đóng vai trò một chứng nhân vừa săn đuổi đến cùng. Lần này cũng thế lúc đầu, Thuý Kiều định tự vẫn, nhưng nó nào đã cho: “Rỉ rằng: nhân quả dỏ dang - Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?Như thế là thần quyền thay thế cho đồng tiền thực hiện cái chức năng công cụ cũng cho một sức mạnh quyền uy vô hình khác cao hơn. Ấy là “trời xanh”. Vì vậy, Thuý Kiều dù không muốn đã phải cúi đầu: “Thân lươn bao quản lấm đầu-Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa Đầu hàng số phận như một thứ con chiên ngoan đạo, Kiều đã phải tự đày đọa mình, lấy thân mà trả nợ đời món nợ truyền kiếp như Đạm Tiên đã trả. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ nỗi đau đớn của nàng không có cách nào khác hơn là phải đi vào văn bản.
Một trong những thành tựu lớn về tư tưởng và nghệ thuật trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là ý thức về cái tôi cá nhân. Từ ánh sáng của cái tôi cá nhân đó mà soi rọi vào những cảnh ngộ khác nhau vừa tạo nên một cái nhìn nhất quán trên diện rộng, vừa có độ sâu, tác phẩm văn chương mới có khả năng trở nên một ám ảnh. Trong bối cảnh lịch sử của văn học trung đại (với hệ thống tư tưởng chính thống, với chủ trương phi ngã), “cái tôi” ấy ít có điều kiện nảy sinh và phát triển. Ấy là nói chung. Còn ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với khí thế quật khởi của phong trào nông dân - những người bị áp bức, bị đè nén cả về vật chất và tư tưỏng, một cái gì đó đã bung ra. Nhạy cảm và tiên phong là những trí tuệ bậc thầy vệ nghệ thuật. Bởi họ có trái tim lớn trước khi có một tài năng lớn để xúc động sâu xa, để rồi sau đó biểu hiện (và cả những kí thác) bằng hình tượng, vào hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo ra để đối thoại với muôn đời, Nguyễn Du là một trong số không nhiều như thế.
Đối chiếu với cuốn tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân, đoạn Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là hoàn toàn thêm vào chứ không có trong cốt truyện. Trong cốt truyện của nguyên bản thay cho lời kể là một bài ca, sau đó Kiều đem phổ nhạc vào khúc Hồ cầm, khi dạo lên ai nghe cũng não ruột. Bài ca kể tóm tắt thân phận nàng Kiều từ khi gia biến đến lúc mắc vào gian kế của Sở Khanh, nhưng tập trung vào lời dạy của Tú Bà về việc tiếp khách làng chơi.
Có lẽ cảm quan hiện thực của tác giả Truyện Kiều không chấp nhận sự né tránh, bởi mức độ sỉ nhục với con người như thế vẫn còn là chưa đủ. Phải thêm một trường đoạn đến 58 câu lục bát, người đọc mới hiểu được hết nỗi khổ đau và gắng gượng của Thuý Kiều sau khi vừa thoát được nơi hang hùm miệng rắn này đã rơi vào cạm bẫy lần thứ hai sau đó: “Tiếc thay nước đã đánh phèn - Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!". Cũng cần phải nói thêm, Nguyễn Du không tham kể việc. Chứng cớ là khi nói về cái không gian ô uế đó lần sau, ông chỉ nhắc qua. Điều ấy xác minh bản lĩnh nhà thơ trong việc cầm bút.
Về cấu trúc đoạn thơ hai mươi dòng này có thể có hai cách nhìn: phân chia theo bố cục bên ngoài và cũng có thể phát hiện ra một thứ mạch ngầm của liên kết bêntrong. Giữa hai cách xem xét đó, thông thường nên theo phương án thứ nhất. Nhưng dù có như thế thì cả hai vẫn phải đạt đến một sự đối ứng cân bằng để việc phân tích được người nghe chấp nhận. Vậy nên chia đoạn như thế nào? Trong một tài liệu hướng dẫn, có người cho rằng nên chia làm hai đoạn (Đoạn một từ câu 1 đến cấu 12: nói nỗi đau xót tủi nhục phải tiếp khách của Kiều. Đoạn hai: phần còn lại nói sự thờ ơ, cô độc của nàng trước thú vui của khách làng chơi). Và hình như người viết cũng phân vân nên mới nhấn vào cái âm hưởng chính: “Cả đoạn cực tả nỗi đau xót, tủi nhục, chán chường của nhân vật trước cuộc sống hèn hạ mà mình phải chịu đựng. Đoạn trích cũng thể hiện phẩm chất của Kiều tuy sống trong môi trường truỵ lạc mà tâm hồn nàng không vẩn đục, không buông thả vào cuộc sống truỵ lạc ấy. Đó là nét đẹp của tâm hồn nàng”.
Tuy nhiên, cách chia đoạn như trên là không hợp lí. Cần phải dồn tất cả các khái niệm như: đau xót, tủi nhục, thờ ơ, cô độc vào phạm trù tâm trạng để tách chúng ra khỏi cảnh ngộ mà nhân vật rơi vào. Như thế sẽ khoa học hơn và thuyết phục hơn. Cụ thể là nên chia đoạn trích làm hai phần: Phần một gồm có bốn câu đầu là cảnh ngộ phải tiếp khách của Kiều ở lầu xanh của mụ Tú Bà, phần hai gồm mười sáu câu còn lại diễn tả tâm trạng của nhân vật trong cảnh sống tủi nhục xót xa. Cách phân chia này có thể không cân đối về hình thức (số lượng), nhưng lại phản ánh được lô-gích của đoạn thơ: có tả cảnh, tả tình nhưng tình được khắc sâu hơn cảnh và từ đó mà nhân vật hiện ra với cả một thế giới nội tâm dồi dào, phong phú. Đây mới chính là tài năng và tâm huyết của nhà thơ.
Trong mười lăm năm lưu lạc của mình, hai lần nàng Kiều phải vào nhà chứa. Nhưng nếu lần thứ hai cảnh ngộ ấy chỉ như một sự kiện. Nguyễn Du không kể nhiều. Chỉ lướt qua một tâm trạng: “Chém cha cái số đào hoa - Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi”. Bởi sự thật, cảnh ngộ này chẳng khác gì lần thứ nhất, vả lại dụng ý của nhà thơ là chuẩn bị cho nàng một chặng đường hoàn toàn khác: gặp người anh hùng Từ Hải. Đó là lí do dẫn đến việc Nguyễn Du miêu tả khá kĩ, khá sâu cả cảnh ngộ và cả tâm trạng của người con gái nhà nề nếp gia phong sa chân vào chốn bùn nhơ nơi lầu xanh của mụ Tú Bà. Cách kể, tả ấy nếu không phải là Nguyễn Du, không ai viết được.
Bốn câu đầu đoạn trích dành cho cảnh tiếp khách làng chơi:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt dêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.
Cái tài của Nguyễn Du là chỉtrong bốn câu mà khái quát được một cảnh ăn chơi, thác loạn điển hình. Như ta biết, Nguyên Du vốn căm ghét cái xấu, cái ác thế nào. Ấy thế mà khi miêu tả cái nơi dơ dáy ấy, nhà thơ không hề sử dụng một bút pháp tả chân nhằm cụ thể hóa. Ngược lại, bằng phong cách cổ điển của văn chương bác học, bằng thủ pháp tượng trưng, ước lệ, tác giả đã gợi ra một không khí rất đặc trưng, về mặt nghệ thuật, có hai đặc điểm nổi bật. Thứ nhất là hình thức cặp đôi của hình ảnh: bướm lả - ong lơi, cuộc say - trận cười, suốt đêm - đầy tháng, lá gió -cành chim, sớm - tối, Tống Ngọc - Trường Khanh. Có lẽ trong Truyện Kiều chưa bao giờ mà biện pháp đối xứng, song hành lại dày đặc, lại ken kín cả bốn câu thơ như thế. Chỉ có hai cụm từ tách ra thì một chỉ số lượng (Biết bao), một chỉ không khí (Dập dìu) thì lại như một sự bổ trợ rất đắc lực cho cảnh đón, đưa không một phút nào dừng. Thứ hai, toàn bộ các hình ảnh ở đây đều nằm trong một môi trường ngược nghĩa. Dùng “trong” để nói “đục”, dùng “sáng” để tả “tối”, lấy cái đẹp đẽ mĩ miều để miêu tả cái nhơ nhuốc, xấu xa. Hình như trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Du, ông không tránh né bất cứ một điều gì, kể cả những gì bẩn thỉu nhất. Nhưng không phải vì thế mà có sao nói vậy. Nghệ thuật phản ánh hiện thực nhưng nghệ thuật còn phải sáng tạo hiện thực nữa. Đó mới là thiên chức nhân văn. Nó đòi hỏi một bản lĩnh. Cái tài của Nguyễn Du ở đây là chỉ tảcảnh, không tả người. Thế nhưng bao nhiêu những gương mặt người vẫn thấp thoáng hiện ra đâu đó trong cuộc sống truy hoan. Có cả cái niềm nở, tươi cười của gái làng chơi. Có cả cái hả hê, thoả mãn của khách làng chơi - những kẻ nhiều tiền, hiếu sắc. Từ bốn câu thơ ta nhớ lại lời dạy của Tú Bà cho Thuý Kiều về nghề nghiệp, đúng hơn là kinh nghiệm tiếp khách: “Cởi xiêm lột áo chán chường - Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lẩm rẩm - Đổi hoa lót xuống chiếu nằm - Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi”. Hoặc “Chơi cho liễu chán hoa chê - Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời". Đó là nói về “ong bướm lả lơi”. Còn những người khách thượng lưu đượe gọi là Tống Ngọc, Trường Khanh, ta cũng nhớ đến tài Tì bà hành của Bạch Cư Dị:
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc li ãy tan dịp gỗ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Nhưng đó mới chỉ là chuyện chuốc rượu, nghe đàn. Còn trong Truyện Kiều trong trường hợp này không có một tiếng đàn nào cất lên, nghĩa là không có được sự sạch sẽ, thanh cao như thế. Chủ nghĩa thực hiện qua tài năng của Nguyễn Du tinh tế và sâu sắc biết chừng nào!
Nhưng âm hưởng chủ đạo của cả đoạn thơ không phải là tả cảnh. Như tên gọi của đoạn trích, đó là “Nỗi thương mình”:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn cảnh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Ởđôi câu lục bát có tính chất mở đầu tâm sự này, ta nhận ra hai khía cạnh. Thứ nhất cái khoảnh khắc thuộc về mình, được là mình của Thuý Kiều thật hiếm hoi, ít ỏi. Đó là một phút lặng của tâm hồn, một nốt lặng giữa bản nhạc xô bồ, ồn ã. “Khi tỉnh rượu” gợi đến những cuộc say, “lúc tàn canh” gợi ra cuộc vui thâu đêm suốt sáng. Lúc đó, nàng thuộc về người khác, là con người khác. Đến lúc này đây mới được là mình. Thứ hai, khi đã trở lại là mình thì cảm nhận sửng sốt, kinh hoàng: nàng không còn là nàng nữa. Cái thảng thốt ấy thể hiện bằng nhịp điệu giật cục. bằng ba chữ “mình” lặp lại ai oán xót xa. Đây là tiếng kêu trời, là tiếng kêu thầm tuy không một giọt nước mắt tuôi rơi mà thấm vào gan ruột. Câu thơ như động tác soi gương ấy nói về sự thay đổi, sự hủy hoại, sự phai tàn vừa như một tiếng kêuthan vừa như một lời tự vấn. Nó có liên quan đến những cuộc hoan lạc, những trận cười, những cuộc say không còn ngày tháng nữa. Nhớ lại mà “giật mình”, nhớ lại mà ghê rợn như kẻ sa chân vào địa ngục giữa chốn trần gian. Nó cũng còn liên quan đến thành phần xuất thân của nàng, phẩm chất tiết sạch giá trong của nàng nữa. Cái ý ở ngoài lời này mới là phần chìm của “tảng băng trôi”. Cũng cần phải hiểu thêm: Thuý Kiều vốn là con người tuy rất giàu tình thương, nhưng trước đây tình thương ấy hướng về người khác: thương Đạm Tiên, thương cha và em, thương Kim Trọng. Thương đến mức quên mình. Còn đến lúc này đây con người cá nhân của nàng mới xuất hiện. Và một khi xuất hiện nó như một trận sóng xô bờ, nối tiếp nhau, chồng chất lên nhau, quặn thắt.
Nỗi thương mình trước hết là thương số phận của mình, thân phận của mình:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Bằng phương pháp so sánh, Thuý Kiều thấy hai đầu của đối cực hiện ra như một vực một trời: trước khác, bây giờ khác. Trước đây “phong gấm rủ là” êm đềm, ấm cúng, gia phong, nề nếp “Êm đềm trướng rủ màn che - Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Đó là một thứ hoa thơm phong nhuỵ ý tứ, giữ gìn. Còn bây giờ vẫn bông hoa ấy đã rách nát, tả tơi. vẫn là cách nói tượng trưng, cách điệu của văn chương bác học mà gợi nhiều liên tưởng đến cuộc dâu bề thăng trầm. “Hoa giữa đường” là một thứ hoa roi lấm láp. Vẫn biết cuộc đời là biến đổi nhưng sự biến đổi nhanh chóng và ghê gớm đến thế kia thì thật bất ngờ. Hai từ "sao” (Khi sao, giờ sao) từ hình thức nghi vấn chuyển sang hình thức cảm thán chính là vì thế. Trở lại phép so sánh, ta nhận ra một dấu hiệu khác thường. Nếu chỉ đọc hai câu “khi sao” và “giờ sao” thì thấy rất là đăng đối. Nhưng đến hai cặp câu tiếp theo thì sự đăng đối đã không còn. Vậy chỉ còn một cách hiểu: vế thứ nhất chỉ có một câu (“Khi sao phong gấm rủ là”), còn vế thứ hai là tất cả những câu còn lại. Những câu còn lại này cụ thể hóa cho cái hình ảnh bông hoa giữa đường trên phương diện hình thể, thân xác của loài hoa. Nói đến “mặt” (Mặt sao...), nói đến “thân” (Thân sao...) là nói đến nhan sắc của người phụ nữ. Nhưng hàm nghĩa trong trường hợp này lớn hơn. Ví như câu: “Mặt sao dày gió dạn sương”. Đó là thái độ vô cảm của người con gái vốn mẫn cảm và da cảm là nàng Kiều trước đây. Cũng câu thơ nói đến “gió sương” này ta còn nhớ lúc mã Giám Sinh xem mặt Thuý Kiều, nàng rất ngại ngần, e lệ: “Ngại ngùng giợn gió, e sương". Sự e lệ ấy giờ đây đã không còn. Điều này có khi còn sợ hơn cả tấm thân ngọc ngà mà giờ đây ong chường bướm chán. Tuy nhiên về tổng thể mạch thơ vẫn được nối kết với nhau rất chặt chẽ. Chặt chẽ trong sự tính đếm kiểm kê về cái còn cái mất. Chặt chẽ trong sự lắp đặt bốn từ “sao” như một tiếng thở dài. Chặt chẽ cả trong thái độ buông xuôi, bít lực.
Nỗi thương mình thứ hai là thương cho sự lẻ bóng, cô đơn không có gì bầu bạn, không có người tri kỉ. Có đến sáu câu thơ tả cảnh. Nhưng cảnh tuy không phải không đẹp, nhưng nó vô hồn. Nói cảnh đẹp vì ở đây có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt:
Đôi phen gió tựa hoa kể
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bê trăng thâu.
Nhưng người với cảnh chỉ là “đồng sàng dị mộng” mà thôi. Một khía cạnh nữa của đoạn thơtả cảnh, ấy là sự bẽ bàng. Sự bẽ bàng này ta đã gặp một lần khi Kiều ở lầu Ngưng Bích: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya - Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Nhưng lần ấy tuy có lo sợ nhưng chưa hết hi vọng. Còn lúc này đây, hi vọng đã không còn. Cái buồn tủi của con người lây sang cảnh vật đã đành (“Người buồn cảnh cóvui đâu bao giờ), vẻ trong sáng của thiên nhiên còn tương phản với tấm thân ô uế. Cho nên cũng là “Nhìn hoa bóng thẹn” nhưng không phải do cảnh ngộ trớ trêu như lần trước mà là sự huỷ hoại nhân phẩm của một con người. Con người ấy bây giờ đây chỉ còn lại cái bóng của chính mình. Cũng cầm kì, thi, hoạ, nhưng gượng gạo, uể oải:
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Sự lẻ bóng đơn côi thể hiện trong cách dùng từ (từ “vui” và từ “ai”) trong tiết tấu chì chiết, đay nghiến bản thân chỉ những con người biết tự trọng như nàng Kiều mới có.
Xét cho cùng, mặt đen tối của hoàn cảnh cũng như sự tủi phận xót xa của Thuý Kiều có một lớp nghĩa thứ hai. Đó là những khao khát của một con người hướng thiện muốn vươn lên như một loài sen. Dù sống giữa chốn bùn nhơ nhưng “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đó là tia sáng lạc quan nhất mà người đọc có thể cảm thông và chia sẻ: “Chữ trinh còn một chút này” với Kim Trọng. Chung thuỷ với cái đẹp của tâm hồn, không đồng loã với cái xấu và cái ác, đó là phẩm chất đáng trân trọng nhất của nhân vật nàng Kiều, một sáng tạo vô giá của Nguyễn Du.
cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong tràng giang
Chẳng biết tự bao giờ, thiên nhiên trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. Thời đại nào cũng vậy, thiên nhiên luôn gợi nên nhiều cảm xúc trong lòng thi nhân. Thơ mới những năm 1930 đã coi thiên nhiên là một đề tài không thể thiếu. Những Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,… đã mang tới những bức tranh thiên nhiên đẹp trong thơ. Và không thể không nhắc tới Huy Cận – một gương mặt xuất sắc, tiêu biểu của phong trào thơ mới. Tuy thơ ông luôn chất chứa sâu nặng nỗi buồn nhân thế nhưng vẫn khiến người đọc nao lòng trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Điều đó được thể hiện rõ nét qua bài thơ Tràng giang – một sáng tác in trong tập Lửa thiêng (1940).
Thiên nhiên trong Tràng giang được gợi cảm hứng từ một con sông rộng lớn, mênh mông vào buổi chiều mùa thu 1939 khi tác giả đạp xe ngắm cảnh. Dù đó là con sông Hồng nhưng nhà thơ không gọi đích danh tên, mà gọi là “tràng giang” như thể đại diện cho bất cứ con sông nào của quê hương đất nước. Bởi vậy mà mọi cảnh vật đều thu hút vào tầm mắt của thi nhân, dẫu đẹp, dẫu buồn nhưng vẫn chất chứa những tình cảm thầm kín. Bức tranh thiên nhiên vì thế được hiện lên qua không gian của trời nước bao la, mênh mang đến rợn ngợp cõi lòng thi nhân.
Trước hết, Tràng giang mở ra một bức tranh thiên nhiên đẹp, bàng bạc một nét đẹp cổ xưa. Vẫn là đề tài quen thuộc, những thi liệu và bút pháp nghệ thuật vốn có trong thơ cổ, Huy Cận đã vẽ nên trên nền trời mây, sông nước mênh mông vô cùng, vô tận những sự vật nhỏ bé, đặc trưng. Có lẽ điều khiến người đọc ấn tượng trong bài thơ là những hình ảnh như sóng gợn, thuyền trôi, gió đìu hiu, bến cô liêu, bèo dạt, mây cao, núi bạc, chim nghiêng… gợi nên cái hồn thiên nhiên của thơ ca cả nghìn năm trước. Quả thực, nếu cứ nhìn người ta vẫn ngỡ đó là không gian của cảnh đẹp tiêu sơ, vắng lặng vốn thấy trong thơ Đường. Mà có lẽ nét cổ xưa nhất trong bài thơ phải kể đến hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ ở khổ cuối cùng. Nó gợi lên cảnh sắc rất thơ. Cánh chim chở trời chiều, chở linh hồn của vũ trụ reo rắc xuống trần gian.
Nhưng tác giả của Lửa thiêng lại kiếm tìm những sự vật mới, khiến bức tranh thiên nhiên mang hơi thở hiện đại. Có lẽ chưa bao giờ người ta bắt gặp trong thơ trước đó những thứ đời thường, bình dị, mộc mạc, chẳng hề ước lệ tượng trưng như Củi một cành khô lạc mấy dòng. Sắc thái của khung cảnh thiên nhiên bỗng trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết, khi thi nhân bỗng nhìn thấy một sự vật đã khô kiệt, mất hết sức sống, đang trôi nổi, lênh đênh trên dòng nước. Chưa bàn đến ý nghĩa tâm tư mà nhà thơ gửi gắm, chỉ thấy chi tiết này đã phác họa thêm cho bức tranh trang giang cái nét đẹp rất riêng. Thiên nhiên đẹp chưa chắc đã là những gì mơn mởn sức sống, chính cái khô kiệt của cành củi trên dòng sông càng làm cho cảnh vật có nét đẹp cuốn hút của nó. Thậm chí ngay cả cái cách nhìn hàng bèo của tác giả cũng gợi lên cảm giác về một khung cảnh thiên nhiên không phải bằng những nét vẽ cầu kì.
Và không thể phủ nận nét đẹp bao trùm của thiên nhiên trong Tràng giang không phải là những khoảnh khắc giao mùa trong cái nhìn say đắm của Xuân Diệu, không có nét đặc trưng riêng có của một vùng quê xứ Huế như trong thơ Hàn Mặc Tử, mà đẹp theo những góc độ khác nhau của không gian. Điều hấp dẫn người đọc chính là nhà thơ đã mở nó rộng ra ở mọi chiều mà ngay từ nhan đề “tràng giang” hay lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài, thiên nhiên được nhìn theo cái biên độ vô cùng, vô tận của nó. Suốt cả bài thơ, độ lớn không giới hạn ấy, còn được gọi là không gian vũ trụ đã làm nền cảnh để bức tranh tràng giang mang một nét đẹp đặc trưng, riêng có mà không bài thơ nào có được.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Chỉ riêng câu thơ này đã tạo nên những chiều kích hết tầm của không gian ở cả ba chiều. Khung cảnh thiên nhiên được đo bởi khoảng cách ngược chiều trong độ sâu của nắng, độ cao rộng của trời và độ dài của sông. Thực ra chỉ cần những thứ nhỏ bé mà nhà thơ nhìn thấy trong khung cảnh ấy cũng đủ để nói lên sự rộng lớn của khung cảnh giống như thơ xưa. Nhưng dường sự cảm thức bị ám ảnh bởi không gian trong hồn thơ Huy Cận đã khiến ông phác họa nên những nét vẽ rộng hơn, mênh mông hơn. Chính vì thế trong con mắt của thi nhân đâu đâu cũng là thiên nhiên:lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng hay:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Thiên nhiên bỗng mang những nét hùng vĩ, tráng lệ mà chẳng cần đến những núi non trùng điệp, chỉ cần mọi thứ được khuếch đại hết tầm theo mọi chiều của không gian như trong bài thơ này. Nét thơ mộng trong khung cảnh vì thế cũng dần dần được mở ra.
Tuy nhiên cái vắng lặng, hoang sơ, im lìm đến hiu hắt cũng là một nét đẹp riêng trong khung cảnh thiên mà Tràng giang thể hiện được. Có thể thấy phông nền chủ đạo của thiên nhiên trong bài thơ là sự rộng lớn, mênh mông của sông nước, mây trời, nhưng cái cảm giác tĩnh lặng mới chính là cái hồn cốt tạo nên nét đẹp của bức tranh này. Có lẽ chưa bao giờ người ta thấy một không gian nào lớn như tràng giang, nhưng cũng chưa bao giờ thấy không gian rộng lớn nào mà lại yên ắng, quạnh hiu như thế. Sóng dẫu nhiều cũng chỉ gợn trên mặt nước mênh mông. Thuyềnnhững tưởng gieo sự sống nhưng lại buông trôi, lững lờ như chẳng liên quan gì đến nước. Những cồn nhỏ gió đìu hiu, bến cô liêu càng tô đậm sự yên ắng. Và ngay cả âm thanh làng xa vãn chợ chiều có thực sự phảng phất đâu đây cũng không làm cho khung cảnh thêm phần sống động. Chính cái mênh mông không cầu, không đò của một dòng sông như thế cũng là một nét đẹp mà thiên nhiên trong bài thơ đã mang lại. Vẫn phải thừa nhận nhà thơ Huy Cận đã sử dụng một hệ thống từ láy gợi cảm giác, nhất là những từ láy nguyên đã làm cho cái không khí vắng vẻ, quạnh hiu trên dòng sông hiển hiện được. Các từ như điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, lặng lẽ, lớp lớp, dợn dợn… cứ nối tiếp nhau từ đầu đến cuối bài thơ đã duy trì cái cảm giác cô quạnh như thế trong khung cảnh thiên nhiên.
Bởi vậy mới nói, thiên nhiên trong Tràng giang hay thiên nhiên trong thơ mới, dẫu đẹp đến đâu nhưng vẫn đượm buồn. Cái nét yên ắng, tách rời nhau trong những sự vật trên của thiên nhiên thực chất được gợi dậy từ hồn buồn trong lòng thi nhân. Huy Cận chở nỗi sầu quá lớn, thậm chí là nỗi sầu của cả một thế hệ nên không gian trong thơ ông cứ nới rộng ra mà lòng người vẫn u uất. Không gian thiên nhiên càng lớn thì con người càng nhỏ bé, cô đơn và lạc lõng. Nhưng đằng sau những xúc cảm ấy người ta vẫn nhìn thấy những lắng đọng về tâm sự thầm kín của thi nhân. Nhà thơ hẳn phải yêu và gắn bó với mảnh đất quê hương lắm, mới nhìn đâu cũng thấy ám ảnh bởi nỗi buồn. Đứng trên đất quê mình, cảnh đẹp quê mình mà sao đâu đâu cũng thấy vắng lặng, tàn lụi. Nỗi nhớ nhà ở cuối bài thơ vì thế mới trỗi dậy để xóa nhòa cái cảm giác thiếu thốn ngay khi còn ở trên quê hương.
Nếu nói đến cái đẹp về thiên nhiên trong bài thơ này thì quả thực Tràng giang đã làm được điều ấy. Huy Cận miêu tả khung cảnh trên một dòng sông với những gì vốn có, thậm chí cả những thứ quá nhỏ bé, tầm thường. Nhưng dưới con mắt đa sầu, đa cảm của thi nhân, ông đã biến hóa nó thành những hình ảnh đầy chất nghệ thuật. Cái đẹp không phải cứ phải hiện lên qua những cảnh sắc lung linh, mà đôi khi chỉ cần nó cũng đồng điệu với lòng người thì sự vật có tầm thường thì cũng trở nên đẹp đẽ.
2/
Bài thơ Tràng giang in trong tập Lửa thiêng là bài thơ hay nhất của Huy Cận và cũng là trường hợp tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ ông trước Cách mạng. Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang đã kết
tụ nỗi buồn “mang mang thiên cổ” ở Huy Cận, được diễn đạt bằng hình thức thơ trang trọng, cổ kính, đậm đà phong vị Đường thi mà vẫn giản dị, mới lạ, độc đáo, mang rõ dấu ấn thời đại của Thơ mới.
Ngay ở nhan đề, Tràng giang đã cho ta biết cảm hứng của bài thơ là cảm hứng từ một không gian. Thật thế, chính tác giả đã thố’ lộ: “Nhìn dòng sông lớn gợi những lớp sóng, tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra những lớp sóng”. Tràng giang là sông dài, “trường” cũng là dài nhưng “tràng” có âm “ang” là âm mở rộng, gợi được cả dài lẫn rộng. Hơn nữa Tràng giang láy âm cuối “ang” càng khơi gợi cảm giác mênh mang, bát ngát của dòng sông lớn.
Tiếp theo, câu đề càng thổ hiện đầy đủ tình, cảnh gợi tứ cho bài thơ. Tình là bâng khuâng, nhớ cảnh là trời rộng, sông dài. Bài thơ mở ra trước tầm mắt ta bức tranh bao la, rộng lớn của cảnh trời nước mênh mang. Không gian ở đây thật vô định. Nó được trải ra ở cả ba chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao, với những hình ảnh phong phú: tràng giang, trăm ngả, mấy dòng, sâu chót vót, sông dài, trời rộng, mây cao, núi bạc… Tất cả bầu trời, mặt đất đều là vô tận, không cùng của vũ trụ. Huy Cận sử dụng nghệ thuật đối lập rất tự nhiên bởi ông đã đặt vào giữa cái không gian bất tận mênh mông ấy những hiện thực của cuộc sống không thế thiếu vắng. Đó là những sự vật cụ thể, nhỏ nhoi, đơn chiếc, con thuyền xuôi mái, củi một cành khô, cồn nhỏ lơ thơ, chim nghiêng cánh nhỏ… nhưng càng làm tăng thêm cái cao rộng của bầu trời, mặt đất. Cái hữu hạn thì vô nghĩa, vô hướng, nhỏ bé, nhạt nhòa, không đáng kể nhưng đã làm nổi bật cái vô hạn không cùng.
Tràng giang không chỉ là bức tranh phong cảnh đẹp với những đường nét, hình khôi, trái lại, đây còn là một bức tranh tuyệt đẹp mang nét buồn mênh mang, quạnh vắng, cô liêu. “Thơ mới” đã đem đến cho người đọc những bức tranh thiên nhiên rạng rỡ nhiều thanh sắc. Thiên nhiên trong Tràng giang cũng có vẻ đẹp riêng của nó. Đó là vẻ đẹp nên thơ của những con sóng diệp điệp đuổi nhau trên mặt nước, của cồn nhỏ lơ thơ, của bờ xanh tiếp bãi vàng chạy dài tít tap. Đó là vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh nắng xuống trời lên sâu chót vót, của cảnh sông dài trời rộng, của mây cao, núi bạc…
Cái đẹp thường gắn với nỗi buồn, đó là cảm quan nghệ thuật của các nhà thơ lãng mạn. Ớ Tràng giang cũng vậy, thiên nhiên trong Tràng giang thật đẹp mà cũng thật buồn. Nỗi buồn cũng bao la mà hiu quạnh. Nhà thơ đã đem nỗi lòng mình và tâm trạng của một thế hệ nhà thơ mới phủ lên cảnh vật. Thôi thì đủ các cung bậc: buồn diệp điệp, sầu trăm ngả, bên cô liêu, bờ sông lặng lẽ như thời tiền sử, lòng quê dạn dợn… đặc biệt bức tranh thiên nhiên ở đây không hề có lây một dâu hiệu của con người, giao cảm, gặp gỡ… bởi đã được phủ định: không dò, không cầu, không khói… quạnh vắng, thê lương.
Ngoài ra, bài thơ Tràng giang còn là một bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển mà hiện đại.
Cả bài Tràng giang mang tính chất trang nghiêm, cổ kính, đậm đà phong vị Đường thi, nhưng cũng rất mới mẻ, hiện đại. Chất cố điển hiện ở cảm xúc của bài thơ (con người một mình đối diện với vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn vô cùng của không gian, thời gian, để nghĩ về kiếp người), cổ điển trong việc học tập Chinh phụ ngâm, cố điển ơ nhạc diệu và tứ thơ Đỗ Phủ (trong bài Đãng cao), cổ điển ở việc lấy ý thơ của Thôi Hiệu (trong Hoàng Hạc lâu)… Nhưng đồng thời cảnh vật trong bài thơ cũng hết sức cụ thể, đời thường (cành củi khô, cồn cát, cánh bèo… ). Hơn nữa, đây còn là một bức tranh đậm đà phong vị Việt Nam. Tràng giang, cái tên gợi nhớ đến dòng Trường giang ngàn dặm ở Trung Quốc từng là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ thi nhân. Tứ thơ Thôi Hiệu ở cuối bài Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà lại càng tăng thêm không khí Đường thi của bài thơ. Tuy thế, bức tranh thiên nhiên ở đây lại rất Việt Nam. Một dòng sông, một cành củi trôi, một cồn cát nhỏ, một chợ chiều ở một làng xa, những cánh bèo trên mặt nước, cánh chim chao liệng trên nền mây bạc lúc hoàng hôn… đều là những cảnh quê hương đất nước, gần gũi, thân thuộc với mỗi con người Việt Nam.
Nói tóm lại, bài thơ Tràng giang toát lên một nỗi buồn mênh mang, thấm vào linh hồn cảnh sắc quê hương, gợi tình mến yêu quê hương một cách sâu lắng. Xuân Diệu nhận xét: “Tràng giang, là một bài thơ ca ngợi non sông đất nước, do đó, dọn đường cho tình yêu giang sơn Tố quốc”.
3/
Phong trào Thơ mới qua đi đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị. Tràng giang của Huy Cận mang vào trong thơ ca giai đoạn này một hơi thở riêng, độc đáo, một phong cách riêng, vẻ đẹp riêng, và vì thế, Tràng giang vẫn còn “chảy” mãi cho đến tận bây giờ và mai sau.
Cùng với rất nhiều nhà thơ khác đương thời, Huy Cận luôn mang trong tâm tư của mình nỗi sầu của cả một thế hệ:
Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ?
Nhưng, đó là nỗi sầu nhân gian, nỗi sầu như từ “vạn kỉ” chảy về. Tràng giang tiêu biểu cho phong cách thơ anh là vậy. Nỗi lòng của tác giả trong Tràng giang man mác, bâng khuâng toàn vũ trụ để đi đến cái cuối cùng, cái cốt lõi là nỗi buồn “Không khói hoàng hôn củng nhớ nhà”.
Tràng giang là một bài thơ đẹp. Nó đẹp trước hết bới nỗi buồn. Thường thường, đẹp và buồn như hai người tâm giao, nhất là đôi với các thi sĩ thơ mới:
Sóng gạn tràng giang buồn diệp diệp.
Nỗi lòng ấy không thể đem ra mà đong, mà đếm. Nỗi lòng ấy cứ lớp lớp vỗ vào nhau, trào lên nhau ngày càng nặng trĩu. Cái nặng của lòng người lại được gợn lên bằng sóng nước dập dềnh bao la nên càng hụt hẫng, chới với hơn. Nỗi buồn làm cho thi nhân cảm thấy cô độc quá:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả.
Củi một cảnh khô lạc mấy dòng.
Dường như cái có thật ây bỗng trở nên mờ ảo, hư vô. Có cái gì đó hiện thân của sự cằn cỗi, héo hon và hiện thân của một Huy Cận đang cô độc đến rợn người. Đó là nỗi buồn trống trải, bơ vơ. Đã có lúc hồn của thi nhân lay lắt trong ngọn gió “đìu hiu”, trong cái không gian tĩnh lặng đến tuyệt đôi, một âm thanh buồn cũng không thế gợi lên. Đã có lúc hồn của thi nhân như tan ra, trải ra trôn sông nước dập dềnh và tràn vào vũ trụ bao la với “sông dài, trời rộng”, với “nắng xuống trời lên”… Mọi cảnh vật đối với nhà thơ đều mông mang quá, còn bản thân ông lại chí là một “bến cô liêu”. Cái hữu hạn bỗng nhỏ nhoi trước cái vô hạn và cùng như thô lại càng buồn hơn. Đã có lúc Huy Cận dường như bơ vơ đi tìm nơi nương náu để đỡ trông trải, nhưng mà chỉ thấy “bèo dạt về đâu hàng nối hàng – mênh mông không một chuyến đò ngang”, sắc màu “bờ xanh”, “bãi vàng” không sưởi ấm được con người cô độc, mà càng làm cho hồn của thi nhân thêm buồn. Nỗi buồn ây bao trùm toàn bài thơ, làm nên vẻ đẹp của tác phẩm. Nhưng đến khổ cuối, nỗi buồn đó như được vỡ ra, như được lý giải. Điều quan trọng là Huy Cận tìm được nguyên cớ khiến cho tạo vật thấm đượm nỗi buồn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dọn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Và như thê, bài thơ lại càng trở nôn đẹp hơn ơ cái tình của thi nhân. Trong khi một số nhà thơ khác có phần còn đang “say” đang “điên”, đang trong chốn “diêu tàn” hay mê mải với tình yêu, thì Huy Cận lại đau vì phải xa mái nhà xưa. Nỗi buồn riêng tư của thi nhân rộng lớn quá, nhân ái quá và cao cả quá! Thôi Hiệu xưa kia nhớ nhà trong buổi chiều tà, khói sương thì nay, Huy Cận thương nhà khi không có cả cái cớ đê buồn thương, để mà gợi nhớ!
Ta nhận thấy trong cái hùng vĩ của thiên nhiên “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, trong cái nhà nhỏ nhoi yếu ớt của một sinh vật sông “chim nghiêng bóng nhỏ cánh chiều sa” và trong cái “dợn dạn” của nước non… có mang một tâm sự u uẩn, nặng trĩu. Phải chăng đó là tâm sự “băng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, là niềm khao khát được sống trong sự giao cảm con người với con người, con người với dân tộc, với đất nước của chính nhà thơ.
Có thế nói chính nỗi buồn cao cả ấy đã làm nên nội dung tình cảm của bài thơ, làm nên vẻ đẹp riêng tư của Tràng giang. Mặt khác, phải thấy rằng, Huy Cận là một nhà thơ trẻ (lúc bấy giờ) đầy tài năng. Tràng giang biểu hiện sinh động cho nghệ thuật thơ ca Huy Cận.
Đọc Tráng giang, ta thấy bài thơ có những hình ảnh rất độc đáo và sinh động. Đó là hình ảnh Củi một cành khô lạc mấy dòng. Nhưng ngôn từ vương vãi ớ đáu đó được nhà thơ nôi lại thành một câu thơ giản dị gần gũi có sức khêu gợi những gi nhà thơ muốn nói. Ngoài nỗi buồn ra, ta còn
cảm nhận được cả nỗi đau đời còn chắt lại. Và như thế, với riêng thơ ca, cũng đủ in đậm một nỗi lòng trong bao nhiêu nỗi lòng của bao nhiêu nhà thơ khác. Bài thơ còn có rất nhiều hình ảnh dẹp và buồn. Đó là hình ảnh của một Tràng giang mênh mang sóng nước, một cồn nhỏ hắt hiu, một màu xanh, màu vàng lặng lõ của cây lá. Và hình ảnh cuối cùng, như trĩu xuống vì lòng thi nhân cũng đã quá nặng với đất trời rồi:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa.
Đó là một hình ảnh kỳ vĩ quá cả sức tưởng tượng làm cho ta có cảm giác như một hình ảnh hoang đường. Mây không gợi sự nhọ nhàng mà gợi sự u uất. Bên cạnh cái hùng vĩ ấy, cánh chim bỗng trở nên bé nhỏ hơn, yêu đuôi non nớt hơn. Một cánh chim chiều cũng đủ đê làm nôn nỗi buồn. Nhưng cánh chim ấy lại như chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhằng trong buổi chiều tà bóng xế. Ta có cảm giác như cánh chim nhỏ nhoi lắm, lại vừa rộng lớn lắm, còn đủ sức để cõng cả bóng chiều, nâng đỡ cả đám mây cao núi bạc cho dù có một lúc nào đó chới với giữa không gian. Có lẽ đây là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường, nhưng sao ở đây nó lại mới đến thế, lạ và đẹp đến thô?
Có thể nói trong Tràng giang, Huy Cận đã làm công việc cao cả của một người nghệ sĩ, đó là sự dày vò ngôn từ. Ngôn ngữ trong Tràng giang không đơn điệu mà sinh động cô đọng với các điệp từ “điệp diệp”, “song song, đìu hiu, chót vót, lặng lẽ, lớp lớp, dạn dạn, đôi khi từ ngữ trong Tràng giang được sử dụng rất đắt không thể thay thế được.
Tràng giang có niêm luật chặt chõ như một bài thơ Đường luật. Vì thế đọc lên, ta có cảm giác như giọng thơ hoài cổ, chắc, khỏe và cũng chất đầy nỗi buâng khuâng nhớ mong, chất đầy tâm sự thầm kín.
Đọc Tràng giang, cái đọng lại cuối cùng là tư thế của con người – một thi nhân trước vũ trụ. Tư thế ấy thật đẹp thật lớn lao biết bao. Nỗi buồn đã không làm cho con người trở nên yếu đuô”i, nhỏ nhoi. Con người ở đây vừa kiêu hãnh, vừa buồn thương. Để cảm nhận, thu hút cả thiên nhiên dưới tầm mắt của mình, nhà thơ phải đứng từ rất cao, rất xa mới thấy Sóng gạn tràng giang, mới thấy một làng xa, mới thấy nắng xuống chiều Lén, bờ xanh tiếp bãi vàng, mây cao đùn núi bạc… Nhà thơ đã dựng lên một không gian ba chiều rộng lớn, mênh mông, sâu thẳm và cao vời vợi. Trùm lén không gian ấy là sự tĩnh lặng gần như là tuyệt đối, duy chỉ có tiếng lòng nhà thơ đang thầm gọi trong xa xăm một dáng hình Tố quốc.
Khó có thê nói hết được cái giới hạn cuối cùng của nỗi lòng trong Tràng giang, cũng như khó có thể nói hết vẻ đẹp tận cùng của nó. Nội dung tình cảm và nghệ thuật điêu luyện trong Tràng giang đã làm nôn phong cách riêng Huy Cận – một điều rát cần thiết đối với người nghệ sĩ.
Vẻ đẹp của bài thơ Tràng giang đã làm nên sức sông mãnh liệt của nó. Tràng giang vẫn là một dòng chảy mãi mãi đến tận sau này. Tràng giang tồn tại trong văn chương bằng vẻ đẹp đầy kiêu hãnh của một sự sáng tạo nghệ thuật và một cái tâm bao la, cao cả của một người nghệ sĩ.
Đối với người dân Tây Nguyên, rượu Cần giữ vai trò là lễ vật khi kính dâng lên các Thần linh, là cách thức giao tiếp với các đấng siêu hình, đồng thời là phương tiện chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, giao kết tình duyên đôi lứa. Trước khi thực hiện giao lưu tình cảm, rượu Cần làm nghĩa vụ thông báo, dâng mời, cầu xin các vị thần linh chứng giám hoặc ban phước. Tuy nhiên, dù sử dụng trong dịp nào, tục uống rượu Cần vẫn là một nét văn hóa đẹp trong đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Rượu Cần được làm thường xuyên, liên tục nhưng chủ yếu được dùng vào những ngày “ có việc “ của buôn làng hay gia đình, như: cúng Yàng, mừng thọ người già, lễ cưới, đám ma, làm nhà, khi nhà có khách xa đến chơi. Đặc biệt là trong những lễ nghi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, những lễ hội của cả buôn làng. Khi gia đình, buôn làng nào “có việc” như vậy, liền được sự đóng góp của cả họ hàng, cả buôn. Mọi gia đình đều chuẩn bị ghè rượu to nhất, ngon nhất của mình để đem tới góp chung. Vừa sẻ chia, giúp đỡ, vừa tạo nên tình cảm gắn bó, thân tình đầm ấm trong cộng đồng.
Cần rượu được làm bằng cây trúc hoặc cành tre nhỏ, dài từ 1, 2 – 1, 5m, soi thông ruột. Đầu cần là mấu đã được khoét thành khe và đục 3 – 4 lỗ nhỏ, đủ để rượu thấm mà không mang theo bã hoặc trấu. Người Banar, Hrê dùng nhiều cần cắm chung trong một ché. Người Êđê, Xê Đăng chỉ dùng một cần, khi nào đám cưới mới sử dụng hai cần. Cắm vào ché sao cho vừa tầm của người ngồi uống và cần không bị tắc, đó cũng là cái khéo của người cắm cần
Uống rượu Cần còn là một nét văn hóa đẹp trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ xưa đến nay, là tượng trưng cho tính tập thể của cộng đồng, lòng mến khách của người Tây Nguyên.
Mặt sáng và mặt tối chắc hẳn mỗi người ai cũng có nhưng một số người vẫn chưa biết cách để phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm của bản thân mình.
Mặt sáng là đại diện cho tâm hồn trong sáng,vị tha và cao thượng,..Còn mặt tối đại diện cho những lỗi lầm và những đức tính xấu mà ta vẫn chưa khắc phục được.Khi bạn phát huy hết các ưu điểm của mình bạn sẽ trở nên rất tốt đẹp trong mắt mọi người họ sẽ thấy rằng bạn là một con người vị tha và cao thượng đáng để học tập nhưng nếu bạn có các khuyết điểm xấu mà vẫn chưa chịu khắc phục mà còn lặp lại nhiều lần mọi người sẽ đánh giá bạn là một người hậu đậu,cẩu thả,...Khi bạn mắc lỗi mà biết sửa sai mọi người sẽ tha thứ cho bạn nhưng nếu bạn vẫn còn tái phạm họ sẽ mất niềm tin ở bạn.Tôi cũng vậy trong cuộc sống cũng có những ưu,nhược điểm riêng,nhưng khi biết sửa chữa cái sai của mình điều đó vô cùng đáng quý.
Vậy nên trong cuộc sống này bạn nên trở thành một người tốt có tấm lòng nhân hậu thay vì trở thành một người chỉ biết sống mãi trong khuyết điểm của bản thân mà chẳng chịu sửa chữa đến khi hối hận thì cũng đã muộn.
viết bài văn thuyết minh về Đền cửa ông (có đầy đủ mở bài thân bài kết bài )
Em tham khảo nhé:
Đền Cửa Ông ở Quảng Ninh tọa lạc trên một ngọn núi thấp trông ra vịnh Bái Tử Long, có phong cảnh tuyệt đẹp, thuộc phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đền Cửa Ông cách Hà Nội Bao xa ? Đền có tên Cửa Ông cách thành phố du lịch Hạ Long hơn 40km về phía Đông Bắc, cách thủ đô Hà Nội 180 Km theo đường quốc lộ 18A. Đền Cửa Ông Quảng Ninh đã trở thành khu di tích thắng cảnh, nơi ghi dấu những giá trị lịch sử, văn hóa xưa, là điểm du lịch ấn tượng, thu hút du khách ghé thăm trong lịch trình du lịch Hà Nội đi Hạ Long. Trên các ngọn đồi là hình ảnh đền Cửa Ông ở Quảng Ninh trông như đan xen, hài hòa dưới những bóng cây cổ thụ, tạo nên cảnh tĩnh mịch, hùng tráng, hoa mỹ nhưng trang nghiêm… Tất cả được xây bằng các loại vật liệu như: đá đúc, gạch Bát Tràng, vữa hồ pha mật, gạch lát nền bằng đất sét nung, ngói mũi đất nung…Cấu trúc đền Cửa Ông Quảng Ninh trang trí theo các điển tích: Long, Ly, Quy, Phượng…Phần bên trong Đền được sử dụng bằng các loại gỗ bền, chắc, đẹp như: đinh, lim, trắc, gụ…Khung ngôi đền được dựng theo lối: kèo, cầu, dường, trụ…trên đó được khắc hoạ bằng các bức phù điêu, bức trướng, câu đối…và các hoa văn được sơn son, thếp vàng lộng lẫy.v.v…Phía trước cửa ngôi Đền là vịnh Bái Tử Long, một “rừng” đảo muôn hình, muôn vẻ nổi bật trên nền xanh biếc của nước biển…Nằm trong cảnh rừng, biển, núi non, sơn thuỷ hữu tình, vị trí cửa di tích Đền Cửa Ông Cẩm Phả Quảng Ninh đã được người xưa ca tụng: “Nghìn trùng nước biếc buông tay áo. Bốn phía non xanh tạc hoạ đồ”. Đền Cửa Ông Quảng Ninh thờ ai ? Ðền Cửa Ông ở Quảng Ninh thờ Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, người con thứ 3 của Trần Hưng Ðạo. Tướng lĩnh Trần Quốc Tảng có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm Nguyên Mông. Ông đã cùng binh sĩ nhà Trần đóng quân tại vùng biên ải Cửa Ông để bảo vệ vùng biên giới và lãnh hải Đông Bắc đất nước mang đến cuộc sống bình yên cho người dân nơi đây. Không như những ngôi đền khác ở Việt Nam, sự tích đền Cửa Ông khá đặc biệt. Trước khi thờ tướng Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông có tên gọi là Miếu Hoàng tiết chế, thờ Hoàng Cần, người địa phương có nhiều công đánh phá giặc cướp, được các triều vua phong "Khâm sai Đông Đạo Tiết chế. Sau khi Trần Quốc Tảng mất (năm 1313) nhân dân địa phương truyền lại thấy ông hiển thánh tại khu Vườn Nhãn (phường Cửa Ông ngày nay) nên đã lập biểu tâu lên vua Trần Anh Tông, được chấp thuận và chu cấp tiền bạc để lập miếu tế lễ đói chính là đền Cửa Ông ở Quảng Ninh thời nay. Khu vực Cửa Ông (xưa gọi là Cửa Suốt) là nơi Trần Quốc Tảng đóng quân đồn trú bảo vệ tuyến biên giới và lãnh hải phía đông bắc Việt Nam, lập nhiều công trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Nguyên. Đền Cửa Ông linh thiêng và đền cũng là nơi duy nhất thờ đầy đủ gia thất Trần Hưng Đạo và các cận thần của ông. Tại đây có 34 pho tượng quý, có giá trị nghệ thuật cao được các nghệ nhân chạm trổ công phu, tỉ mỉ, sắc nét. Đó là tượng Trần Hưng Đạo, tượng Thánh Mẫu (phu nhân Trần Hưng Đạo), hai công chúa (con gái Trần Hưng Đạo), Trần Quốc Tảng, Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Lê Phu Trần, Đỗ Khắc Chung... Nét văn hóa lịch sử đền Cửa Ông được thể hiện rõ nét qua lễ hội đền diễn ra từ ngày 2 tháng 1 âm lịch và kéo dài đến hết xuân. Vào mùa hội, nườm nượp du khách từ khắp mọi miền đất nước cùng đi lễ Đền Cửa Ông để thăm thắng cảnh nới đây và cầu tài, cầu lộc, cầu bình an cho gia đình. Khách đến du lịch đền cửa Ông ở Quảng Ninh sẽ có thể đi bằng đường bộ qua thành phố Hạ Long, cũng có thể đi bằng đường thủy ven vịnh Hạ Long, qua vịnh Bái Tử Long đến sát cửa đền Hạ. Lễ hội được tổ chức linh đình với bài văn khấn đền Cửa Ông Quảng Ninh để tế lễ và rước kiệu bài vị Trần Quốc Tảng từ đền ra miếu ở xã Trác Chân, tên tục là Vườn Nhãn (theo truyền thuyết là nơi Ðức Ông hoá trôi dạt vào…) và quay trở về đền tượng trưng cho cuộc tuần du của Ðức Ông. Sau các nghi thức tế lễ truyền thống tại lễ khai mạc, nhiều hoạt động văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian được diễn ra như múa rồng, cờ bỏi, bịt mắt đập niêu, bịt mắt đánh trống, tổ tôm điếm, đẩy gậy, kéo co…Và quý khách hãy sắm lễ đi đền Cửa Ông thật đầy đủ nhất để tỏ lòng thành tâm với ngài. Qua bài viết chắc hẳn bạn đã hiểu rõ chúng tôi đã giới thiệu về đền Cửa Ông Cẩm Phả Quảng Ninh rất rõ và cũng như ý nghĩa của ngày hội diễn ra tại đền. Ngôi đền không chỉ nổi danh linh thiêng đối với người dân Quảng Ninh mà còn tất cả nhân dân Việt Nam. Đền Cửa Ông Quảng Ninh đã được Bộ Văn hoá thông tin cấp bằng xác nhận là di tích thắng cảnh.
Nghị luận xã hội về sự kỳ diệu của cuộc sống
Lập dàn ý và viết thành một bài văn.
Lập dàn ý và viết thành một bài văn cho đề bài:
Đọc văn bản sau:
Một cô b hat e di học về nói với ba:
- Hôm nay con d tilde a n 1 bà cụ qua đường ba ạ.
- Con gái ba thật giỏi, ba thưởng cho con hôm nay.
Ngày hôm sau cô bé đi học về cùng một người bạn nữa và nói:
- Hôm nay con và bạn Tania cùng dẫn một bà cụ già qua đường ba ạ.
- Hai con rất ngoan, ba thưởng cho cả hai nhé.
Ngày thứ ba, c hat o bé trở về với năm người bạn và k hat e với ba:
- Hôm nay cả nhóm tụi con d tilde am b cụ qua đường ba ơi.
- Các con rất ngoan, ba lại thưởng cho cả nhóm nhé. Mà sao phải cần nhiều người thế để dẫn cụ già hả con?
- Ba không biết đâu, bà cụ chống cự khỏe lắm, sáu đứa tụi con mới lôi được cụ qua đường đấy ạ!
Thực hiện các yêu cầu:
1/ Xác định phương thức biểu đạt của văn bản.
(Trích nguồn: Internet)
Cho đoạn trích sau: Mỗi người đều có một ước mơ riêng cho mình. Có những ước mơ nhỏ nhoi như của cô bé bán diêm trong truyện cổ An-đéc-xen: một mái nhà trong đêm đông giá buốt. Cũng có những ước mơ lớn lao làm thay đổi cả thế giới như của tỷ phú Bill Gates. Mơ ước khiến chúng ta trở nên năng động một cách sáng tạo. Nhưng chỉ mơ thôi thì chưa đủ. Ước mơ chỉ trở thành hiện thực khi đi kèm với hành động và nỗ lực thực hiện ước mơ... Tất cả chúng ta đều phải hành động nhằm biến ước mơ của mình thành hiện thực.
chỉ ra và tác dụng của biện pháp tu từ trong đoạn trích trên