Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 88
Số lượng câu trả lời 116
Điểm GP 18
Điểm SP 62

Người theo dõi (2)

Đang theo dõi (7)

Gia Linh
Gojo Satoru
Chu Diệu Linh
Huỳnh Kim Ngân

Câu trả lời:

Vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường…Tôi, không phải ngoại lệ, cũng có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Vào cái buổi hoàng hôn rực rỡ và huy hoàng, trên cái không gian biển rộng lớn bao la, tôi được ra khơi cùng với những người dân chài lưới. Họ là những con người lao động ra khơi với sức mạnh đoàn kết và niềm vui lạc quan, phơi phới của những người đang làm chủ cuộc đời, ngày đêm chinh phục biển khơi. Họ ra khơi với câu hát ca ngợi sự giàu có của biển cả. Biển Đông giàu có với rất nhiều loài cá quý, nào là cá bạc, cá thu đang lấp lánh giữa biển trăng, là cá nhụ, cá chim, cá đé. Còn những chàng trai khỏe khoắn thì như những người nghệ sĩ khi lướt con thuyền băng băng trên mặt nước, như những người hiệp sĩ khi dàn đan một thế trận hào hùng. Họ bắt đầu nghêu ngao hát, gõ vào thuyền dụ cá vào. Một trong số họ nói với tôi răng "Mỗi ngư dân chúng tôi đều rất biết ơn biển cả, biển cho nguồn sống là cá, biển cho công việc và giúp chúng tôi được lớn lên thành người, biển cả như là người mẹ thứ hai của mỗi người." Thế mới thấy tình cảm của họ dành cho biển cả cũng lớn đến nhường nào. Tờ mờ sáng, khi sao vẫn còn, họ bắt đầu nhanh tay kéo lưới để kịp trời sáng, mẻ lưới đầy cá nặng trĩu, mấy anh chàng chung tay kéo mới lên được. Chuyến ra khơi đã bội thu, các ani xếp lưới, căng buồm quay thuyền trở về. Ra khơi hào hứng bao nhiêu thì trở về càng thêm phơi phới bấy nhiêu. Sau chuyến đi này, hồn tôi như lột xác hoàn toàn, trở nên mới mẻ và tràn đầy sức sống. Tôi bắt đầu sáng tác bài thơ về con thuyền ấy, cùng với đó là nhiều những trang ngơi ca về những người lao động mới...

Câu trả lời:

Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.
Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ông. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.
Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.
Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:
Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.
Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.
Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.
Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.
Nguồn: https://hoatieu.vn/tai-lieu/thuyet-minh-ve-le-hoi-truyen-thong-207348