Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 0
Số lượng câu trả lời 109
Điểm GP 13
Điểm SP 182

Người theo dõi (14)

Đang theo dõi (2)


Câu trả lời:

Dàn ý

I. Mở bài.

Một trong những truyền thống tốt đẹp nhất của người Việt Nam là "Tôn sư trọng đạo". Đó là đạo lí của những người học trò mà chúng ta cần phải trân trọng, giữ gìn và phát huy. Trong xã hội ngày nay truyền thống ấy được nhận thức, thực hành như thế nào chúng ta hãy cùng bàn luận.

II. Thân bài.

1. Giải thích.

Tôn sư: (tôn: là tôn trọng, kính trọng và đề cao; sư: là thầy dạy học, dạy người, dạy chữ). Vậy tôn sư là người học trò thì phải biết tôn trọng, kính trọng và đề cao vai trò của người thầy trong quá trình học tập và trong cuộc sống. Trọng đạo: (trọng: coi trọng, tôn trọng; đạo: đạo lí, con đường làm người, đạo đức, đạo lí truyền thống tốt đẹp của con người): Vậy trọng đạo: là người học trò phải biết tôn trọng, lễ phép, kính trọng người thầy, vì người thầy đã giảng dạy, truyền dạy cho chúng ta biết thế nào là đạo nghĩa, đạo đức, đạo học làm người và những tri thức khác về mọi mặt của đời sống tự nhiên, đời sống xã hội,...

2. Phân tích, chứng minh, bình luận.

a. Phân tích.

"Tôn sự trọng đạo" chính là một truyền thống tốt đẹp của đạo học Việt Nam, truyền thống này có từ lâu đời khi có nhu cầu truyền dạy và học tập của con người. Đề cao vai trò, tầm quan trọng của người thầy chúng ta còn biết đến những câu thành ngữ, tục ngữ, những câu nói dân gian như:

"Không thầy đố mày làm nên" – có nghĩa là nếu không có người thầy dạy cho ta học và làm bất cứ sự việc gì thì ta không thể học và làm được điều đó. "Học thầy không tầy học bạn" – có nghĩa là: nếu học thầy mà chưa hiểu hết, chưa nắm hết được kiến thức thì học ở bạn, lúc này bạn cũng là thầy của ta.

Vì thế dân gian lại có câu:

"Tam nhân đồng hành tất hữu vi sư" - có nghĩa là: ba người cùng đi trên một đường, tất sẽ có người là bậc thầy của ta.

Và vì thế câu nói sau mới có ý nghĩa:

"Nhất tự vi sư, bán tự vi sư": có nghĩa là: người dạy cho ta một chữ thì cũng là thầy, dạy nửa chữ cũng là thầy. Đây là cách nói cụ thể nhất của câu : "Tôn sư trọng đạo".

Và vì thế: "Trọng thầy mới được làm thầy" - có nghĩa là: nếu không tôn trọng thầy và đạo học của thầy thì không thể làm thầy thiên hạ được. Vì muốn làm thầy thì trước hết phải làm học trò. Một người học trò khi trở thành bậc thầy thì đã có biết bao người thầy đã truyền thụ kiến thức về mọi mặt – tức là làm học trò của nhiều người thầy thì sau mới có thể làm thầy giỏi được.

Vậy nên, vì những lẽ trên, cha ông ta đã đúc gọn trong câu: "Tôn sự trọng đạo" là rất chính xác, ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa về vai trò, tầm quan trọng của việc tôn trọng người thầy, tôn trong đạo học.

b. Chứng minh.

Lấy chính kinh nghiệm của bản thân mình. Bằng những hiểu biết về vấn đề này: Chúng ta luôn tự hào với truyền thống và phẩm chất cao đẹp của các bậc thầy xưa, các thầy lớp trước mà danh tiếng lưu truyền mãi mãi. Như thầy Lê Văn Hưu, thầy Chu Văn An, Nguyễn Phi Khanh đời nhà Trần, thầy Trần Ích Phát đời nhà Lê, thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm đời nhà Mạc. Thế kỷ XIX có thầy Cao Bá Quát, thầy Nguyễn Đình Chiểu lấy việc dạy người cao hơn dạy chữ. Đầu thế kỷ XX có thầy Nguyễn Thức Tự đã dạy dỗ học trò hầu hết thành đạt trở thành những chí sĩ yêu nước như cụ Phan Bội Châu, Ngô Đức kế, Đặng Thái Thân, Lê Văn Hân,... Chúng ta quên sao được thầy giáo Nguyễn Tất Thành người đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với các học trò xuất sắc như: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã làm rạng rỡ non sông đất nước ta.

c. Bình luận.

Ngày nay có rất nhiều người học trò đang ngồi trên ghế nhà trường, được học nhiều bộ môn của các thầy cô giảng dạy nhưng họ không ý thức được vấn đề cần phải tôn trọng, kính trọng, lễ phép với người thầy và coi trọng đạo học mà thầy truyền giảng. Điều ấy có nghĩa là đạo lí truyền thống không được tôn trọng, học tập... Nhưng cũng có rất nhiều người học trò đã và đang hiểu và thực hành câu thành ngữ và cũng đang bước trên con đường thành đạt trong cuộc sống, trong khoa học,...

3. Mở rộng.

III. Kết luận.

Khẳng định sự đúng đắn, ý nghĩa, giá trị giáo dục, vai trò, tầm quan trọng và những tác động tích cực của câu thành ngữ "Tôn sư trọng đạo".

Câu trả lời:

Nếu ai hỏi tôi rằng người bạn thân nhất của bạn là ai? Tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời rằng đó chính là Lan - Cô bạn lớp trưởng lớp tôi.

Lan năm nay 11 tuổi, bằng tuổi tôi. Bạn có dáng người cân đối, khỏe mạnh cùng với cách ăn mặc trang nhã, gọn gàng cộng với tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát nên trông bạn thật xứng đáng là con chim đầu đàn của lớp.
Lan thật xinh đẹp, luôn nổi bật trong đám bạn gái lớp tôi bởi bạn có khuân mặt trái xoan, nước da trắng hồng cùng với mái tóc dài đen nhánh. Đôi mắt tròn, đen lộ rõ vẻ thông minh. Cái mũi dọc dừa xinh xắn càng làm cho khuân mặt của bạn thêm thanh tú. Mỗi lúc vui đùa hay nói chuyện Lan luôn nở ra nụ cười rất tươi, để lộ hai hàm răng trắng đều như hạt bắp. Ai gặp Lan cũng phải trầm trồ khen ngợi vì vẻ đẹp dịu dàng, ít ai có được.
Còn tính tình của Lan thì khỏi phải nói. Tuy bằng tuổi tôi nhưng bạn chính chắn hơn tôi rất nhiều. Lan sống chan hòa, cởi mở với bạn bè. Về học tập Lan luôn đứng đầu lớp, không những thế bạn còn luôn đi đầu trong các hoạt động của lớp cũng như của trường. Con người bạn thật mẫu mực. Vừa xinh đẹp lại giỏi giang nhưng bạn không hề kiêu căng mà sống hết mình về tập thể. Ở lớp, có việc gì khúc mắc, bạn bình tĩnh khéo léo giải quyết. Đối với những bạn học yếu bạn tận tâm giúp đỡ, chỉ bảo đến nơi, đến chốn. Nhờ có bạn mà lớp tôi luôn luôn đi đầu trong các hoạt động của liên đội. Vì thế trong trường thầy cô nào cũng yêu quý Lan.
Ở lớp Lan như vậy đấy còn về nhà Lan lại càng tuyệt vời hơn. Ngoài giờ học, Lan còn rất chăm chỉ làm việc nhà. Đối với ông bà cha mẹ Lan còn là một đứa cháu hiếu thảo, một người con ngoan ngoãn. Đối với mọi người xung quanh Lan luôn kính trọng, lễ phép. Vì thế mọi người đã dặt cho Lan một cái tên thật thân mật: ''Cô Tấm chăm làm". Tình bạn giữa tôi và Lan ngày càng thân thiết. Tôi và Lan cùng vui chơi, truy bài, học nhóm. Nhiều lần tôi chưa hiểu bài Lan đến tận nhà giảng bài cho tôi. Tôi thật ngưỡng mộ bạn. Không chỉ với tôi mà tất cả các bạn trong lớp, trong trường đều ngưỡng mộ bạn.

Chơi với Lan tôi thấy rất thỏa mái. Tôi thật tự hào khi có một người bạn như vậy. Tôi mong ước sẽ được học cùng bạn để học tập những phẩm chất tốt của Lan.

Câu trả lời:

Phân tích bài thơ “Từ ấy” – Tố Hữu

Bài làm

Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng.
Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

“Dù ai thay ngựa giữa dòng
Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua các tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…

Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng

Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá,

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó với mọi người:

Tôi buộc hồn tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời

“Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam

Để tình trang trải với trăm nơi

Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: “Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống – Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng”., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bấc cù bơ.

Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người “than bụi, lầy bùn”là lực lượng tiếp nối của “vạn kiếp phôi pha”, là lực lượng ngày mai lớn mạnh của “vạn đầu em nhỏ”,để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ “là” được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.

Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, “Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.

Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng – tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản.

Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là “cõi tạm”. Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng:

Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro.
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
Sống là cho. Chết cũng là cho.

Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân..

Câu trả lời:

Xuân Diệu từng viết: Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm. Chính thế, trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945), thơ Huy Cận là thơ của nỗi sầu. Trong thơ, Huy Cận thường nói đến thiên nhiên, miêu tả những bức tranh thiên nhiên. Nhưng nói đến thiên nhiên, chủ yếu Huy Cận nói đến nỗi sầu của mình. Bài thơ được coi là hay và tiêu biểu của Huy Cận trong tập Lửa thiêng là bài Tràng giang.

Tràng giang nghĩa là sông dài. Được biết cảm hứng của bài thơ này bắt đầu vào một buổi chiều, nhà thơ ngồi bôn bờ sông Hồng ở chỗ bến Chèm của Hà Nội bây giờ. Thật ra, Huy Cận có thể đặt tên cho bài thơ là Trường giang, theo cách đọc quen thuộc của người miền Bắc. Nhưng nhà thơ đã dùng Tràng giang, hẳn vì trong hai tiếng này, âm vang ang được nhắc lại hai lần, có giá trị biểu cảm hơn, gợi lên một ấn tượng mênh mang hơn, bâng khuâng hơn, buồn hơn. Sau nhan đề, trước khi chính thức đi vào các khô thơ Huy Cận còn viết một câu đề từ:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.

Như thế, cảm hứng của bài thơ không chỉ bắt nguồn tư một dòng sông, mà còn bắt nguồn từ dòng sông trong mối quan hệ giữa trời rộng với sông dài. Đó là bức tranh của trời đất bao la. Bài thơ này bắt đầu từ cái bao la ấy, hay nói đúng hơn, từ vị thế của con người trước cái bao la ấy.

Khổ thơ thứ nhất hầu như chỉ dành để tả dòng sông:

Song gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả Củi một cành khổ lạc mấy dòng.

Một dòng sông lặng chi có những gợn sóng rất nhỏ, nhỏ đến nỗi những lớp sóng như điệp vào nhau. Chính vì thê' mà buồn. Con sông như uế oải chảy xuôi, không có gì đê vội vàng, không có gì để náo nức. Mỗi lớp sóng là một nỗi buồn, vô vàn lớp sóng là vô vàn nỗi buồn. Dòng sông chảy ra vô tận trong cả hai chiều, nỗi buồn cứ điệp điệp trên hai chiều chảy ra vô tận. Trên dòng sông có con thuyền, nhưng con thuyền hầu như vắng sự sống, bởi con thuyền xuôi mái để cho nước cuốn trôi. Giữa thuyền và nước, chẳng có quan hệ gì với nhau dù chúng đang rất gần nhau, bởi thuyền thì xuôi mái, nước thì song song. Đã thế thuyền theo nước trôi mà trở về chôn cũ, chỉ còn nước ở lại với dòng sông, hai bên hai neo. Trên sông chỉ còn lại nỗi buồn, để rồi nỗi buồn cũng theo nước mà tỏa đi trăm ngả. Trong mấy câu thơ hình ảnh nước và thuyền thật đơn độc, lạc lõng, từ đó nỗi buồn nổi lên. Hình ánh mà câu thơ cuối tạo nôn thật đẩy ấn tượng Củi một cành khô lạc mấy dòng. Hình ảnh một cành cây bị bứt khỏi rừng rồi bị trôi dạt trên sóng, tự nó đã gợi lên nhiều cảm xúc về nỗi lạc loài. Cành cây trôi dạt trong câu thơ của Huy Cận còn là một cành khô, một cành củi, ấn tượng lạc loài mà nó tạo nên thật là sâu thẳm. Đã thế, củi chỉ có một cành, một cành khô mà lạc đến mấy dòng. Hình ảnh tưởng chừng vô lí

nhưng không khiến ta cảm thây vô lí, mà chỉ thấy xót thương cho một cái gì đã lưu lạc, trôi nổi, còn phải chịu lắm dập vùi. Nghe nói Huy Cận đã mấy lần sửa đi sửa lại câu thơ này để cuối cùng có được hình ảnh Củi một cành khô lạc mấy dòng như thế’.

Từ cảnh trên sông, sang khổ thơ thứ hai, Huy Cận chuyển cái nhìn của mình khỏi dòng sông để hướng về phía bên kia sông. Có lẽ, nhà thơ muôn tìm một cái gì đó bớt đơn độc hơn, bớt buồn hơn, bớt phẳng lặng và đơn điệu hơn. Nhà thơ nhìn thây:

Lơ thơ cồn nhỏ gió dìu hiu,

Dâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Quả là cảnh có thay đổi, đường nét, hình dáng có thay đối, nhưng sự phẳng lặng thì vẫn thố, cái hoang vắng, cái buồn thì vẫn thế. Thay vào dòng sông phẳng lặng, chỉ có lơ thơ cồn nhỏ, thay vào những lớp sóng buồn điệp diệp chỉ có gió đìu hiu. Chỉ có thiên nhiên, cái xao động rất nhẹ của thiên nhiên. Không có con người, không có cái xôn xao của cuộc sống. Lắng nghe cho kĩ, hình như có những âm thanh của cuộc sống vẳng lại. Nhưng đó là những âm thanh mơ hồ vẳng lại từ một làng xa, lại là âm thanh của một phiên chợ chiều đang tan. Cảnh chợ chiều xưa naỵ không phải là để gợi nên niềm vui, huống chi là một chợ chiều đang tan. Ở đây, nhà thơ không nhìn thấy cảnh ấy, mà chỉ nghe thấy tiếng. Tiếng vãn chợ chiều rồi cũng sẽ tan đi, nhường lại buổi chiều cho không gian tĩnh mịch. Buổi chợ chiều đã vãn, chiều đã xuống, ánh sáng mặt trời nhạt nhòa hơn:

Nấng xuống, trời lên sâu chót vót.

Có hai điều đang phát triển trái chiều nhau, nắng xuống thì trời lên, lên mãi cho đến độ sâu chót vót. Huy Cận đã có một kết hợp từ hầu như không chính xác: sâu chót vót. Người ta chỉ nói cao chót vót, không ai nói sâu chót vót như vậy. Trong chiều cao của bầu trời, Huy Cận đã nghĩ đến chiều sâu của không gian, trời càng cao thì càng sâu thăm thẳm. Rõ ràng, trước bóng chiều đang xuống nhanh nhà thơ đã cảm nhận một cách sâu sắc con người trơ trọi giữa không gian mênh mông, vô tận trôn cả ba chiều. Trước cái mênh mông ấy, con người và những gì thuộc về con người thật là bé bỏng, đơn độc, tội nghiệp:

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Con sông càng dài, bầu trời càng rộng, cái bôn đò càng nhỏ nhoi hoang vắng. Từ bờ sông, sang khổ thơ thứ ba, nhà thơ lại trở về với dòng sông. Lúc này, thuyền đã về, nước đã lại, cành củi lạc mây dòng cũng đã trôi đi, thay vào đó là những nét khác:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyên dò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Trong cuộc sống của người Việt Nam, hình ảnh cánh bèo mặt nước

bao giờ cũng gợi lên một cảm nhận về sự trôi nổi vô định, về những mảnh đời lạc loài, tội nghiệp. Trong câu thơ của Huy Cận, hình ảnh ấy lại chồng chất mấy tầng. Không phải một cánh bèo, không phải khóm bèo, hay một đám, một vạt bèo mà là hàng nối hàng. Đã bèo dạt, lại hỏi về đâu, lại còn hàng nối hàng. Câu thơ của Huy Cận đậm đặc nỗi xót thương và cảm nhận về cảnh lạc loài. Trước cảnh lạc loài, con người muôn tìm một nơi bấu víu, một cảm giác về sự gần gũi, về sự giao tiếp, nhưng tất cả đã không còn. Không một chuyến đò ngang, không một chiếc cầu, nghĩa là không có sự giao lưu nào, sự giao cảm quen thuộc nào, chỉ có sự cô đơn mà thôi, chỉ có cảnh vật trải ra mênh mang:

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Cảnh trong câu thơ không phải là không đẹp, nhưng sao mà đơn điệu thê, lặng lẽ đến thê', xa xôi và buồn đến thế! Bóng chiều đô xuống cùng với khổ thơ thứ tư:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dạn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Chiều càng xuống, mây càng giăng đầy trên núi cao. Mây không phải là giăng, hay lên, hay bay mà lại mây đùn, nghe uế oải và buồn bã. Chiều về, một cánh chim nghiêng xuống giữa trời. Trong cái phút nhìn thây cánh chim xuống ây, Huy Cận có cảm giác như bóng chiều cũng nghiêng đổ xuống theo. Từ sa trong mấy tiếng bóng chiều sa gợi ấn tượng rất mạnh: bóng chiều như một cái gì đó rất cụ thể có hình khối bông đột ngột rớt xuống từ trời cao. Đến lúc này thì con người hoàn toàn thấm thía nổi buồn, đã trọn vẹn cảm nhận nỗi cô đơn của mình:

Lòng quê dạn dạn vời con nước.

“Lòng quê” ý nói là nỗi nhớ quê. Trong những phút giây này, nhìn vút theo dòng sông, tác giả nhận ra rằng, cũng như những lớp sóng đang dợndạn trên mặt sông, nỗi nhớ quê cũng dợn dợn nối lên trong tâm hồn mình, không mãnh liệt nhưng xao xuyến và mênh mang. Lúc ấy, nỗi nhớ nhà bỗng ập đến, không chờ phải có khói hoàng hôn khơi gợi. Tại sao Huy Cận lại nhắc đến khói hoàng hôn ở đây? Gần 15 thế kỉ trước, nhà thơ Đường nổi tiếng Thôi Hiệu trong bài thơ nổi tiếng Hoàng Hạc lâu có hai câu kết:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Tản Đà dịch:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Thôi Hiệu vì nhìn thấy khói sóng trên sông trong một buổi hoàng hôn mà chạnh nhớ quê hương. Trong buổi hoàng hôn này, đứng trước dòng sông dài, không cần có khói mà cũng nhớ nhà. Bởi vì sao? Vì cảm thấy cô đơn! Trước buổi chiều, vắng lặng như buổi chiều hôm nay, trước dòng sông mênh mang như dòng sông này, một không gian ba chiều vô tận

như không gian này, con người sao mà nhỏ bé, sao mà đơn độc thế. Con người cảm thấy thật cần một cái gì thân thuộc với mình để chia sẻ bớt nỗi cô đơn. Nỗi nhớ nhà đã dâng lên là vì vậy. Trong nỗi cô đơn của Huy Cận, nỗi nhớ nhà của Huy Cận, ta nhận ra tâm trạng bơ vơ, bơ vơ đến tột độ của cả một thế hệ.

Tràng giang của Huy Cận có vẻ như là một bài thơ tả cảnh. Thế nhưng người đọc thơ, qua cảnh ấy lại chủ yếu nhận ra tâm trạng, một nỗi buồn mênh mông, một nỗi cô đơn mênh mông. Đó là nỗi cô đơn của cả một thế hệ vừa nhận ra cái tôi của mình, một cái tôi cô đơn, trước một cuộc đời vừa mênh mông, lại vừa bế tắc. Đọc Tràng giang, người đọc vừa rung động bởi cái đẹp, vừa thấm thìa với nỗi buồn. Bài thơ, vì thế đã và sẽ sông lâu trong thơ Việt Nam.

Câu trả lời:

Dàn ý phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

1. Mở bài: Giới thiệu nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

2. Thân bài: Phân tích nhân vật A Phủ cần có những ý chính sau.

Nửa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ kể về quãng đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, trong nhà thống lí Pá Tra. Ở phần này, A Phủ là nhân vật phụ, nhưng có tác dụng làm nổi bật hình tượng nhân vật chính là Mị và khắc họa rõ hơn chủ đề tác phẩm. A Phủ là nhân vật được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo vào bức tranh hiện thực của tác phẩm.

A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch. Có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười bốn, nhưng A Phủ gan bướng, trốn thoát lên núi, rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ thành một chàng trai khỏe mạnh "chạy nhanh như ngựa", lao động giỏi, lại"săn bò tót rất thạo". Vì thế, A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái. Họ bảo nhau: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà". Tuy vậy, A Phủ suốt đời làm thuê làm mướn, nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai Hmông khác. Chính hoàn cảnh khắc nghiệt này đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo bạo và một sức sống mạnh mẽ. Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân vật chàng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân gian. A Phủ dám đối mặt với bọn con quan một cách thật hùng dũng và đầy tự tin. Anh sẵn sàng trừng trị kẻ đã phá cuộc vui của bạn bè mình. Cũng vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Phá Tra để xử kiện. Cuộc xử kiện quái lạ này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn dã man để cuối cùng A Phủ vô cớ phải trở thành người nô lệ gạt nợ cho nhà thống lí. Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã làm hiện rõ trước mắt người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắn trợn kiểu trung cổ của bọn thống trị miền núi. Qua "làn khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn ra các lỗ cửa sổ", cứ hút trong một đợt thuốc phiện Pá Tra lại ra lệnh, trai àng lại từng đợt, từng đợt thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi xông vào đánh A Phủ. Còn người thanh niên khốn khổ này chỉ biết im lặng chịu đòn "suốt chiều, suốt đêm". Như vậy, tuy là một chàng trai tự do của núi rừng, A Phủ vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của bọn chúa đất. Từ đây, anh bỗng vĩnh viễn trở thành con trâu, con ngựa, như một nô lệ cho nhà Pá Tra. Hơn nữa, cho đến cả đời con, đời cháu, bao giờ trả hết nợ mới thôi. Và nếu không gặp Mị, chắc chắn A Phủ đã phải chết một cách thê thảm tại nhà thống lí. Tinh thần phản kháng là cơ sở để sau này, khi gặp A Châu – người cán bộ của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê hương.

3. Kết bài

Câu chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện của Mị - người con dâu gạt nợ, để hoàn thiện bản án về tội ác của bọn chúa đất đối với những người lao động lương thiện ở miền núi trước Cách mạng, đồng thời cũng cho thấy sức sống mãnh liệt của họ.

Câu trả lời:

Con người khai thác thiên nhiên rồi sử dụng một cách vô tội vạ mà không nhận ra rằng: Thiên nhiên là bạn tốt và đang cần chúng ta yêu mến, bảo vệ. Và bản thân mỗi người cần biết: Bảo vệ môi trường thiên nhiên là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.

Trước hết, chúng ta cần phải định nghĩa: "Thế nào là thiên nhiên?". Tôi dám chắc ngày nào bạn cũng gặp người bạn thiên nhiên bởi một lẽ rất đơn giản: Đó là thiên nhiên luôn có mặt trong nhịp sống của chúng ta, là trăng, gió, trời, mây… Còn môi trường sống mang ý nghĩa rộng hơn, bao gồm cả thiên nhiên và những thứ gọi là nhân tạo. Chúng ảnh hưởng, tác động đến đời sống của loài người. Nói chung, thiên nhiên là kho tàng quý giá giúp con người tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, chúng không vô tận còn con người vẫn cứ khai thác đến khi cạn kiệt. Việc tàn phá môi trường sống cũng là tàn phá chính cuộc sống chúng ta.

Trước tiên là rừng, “lá phổi xanh” của nhân loại - cung cấp oxy cho hoạt động hô hấp sinh tồn của mỗi con người. Nhờ có rừng mà phần nào làm chậm lại dòng nước lũ ở những vùng đồi núi, kéo dài thời gian để người dân sắp xếp công việc của mình. Rừng còn là nguồn khai thác lâm sản, tạo ra những bộ bàn ghế gỗ sang trọng trong phòng khách, những bàn học chắc chắn hay gần gũi hơn là vở chứa đựng kiến thức của thầy cô. Ngoài lâm sản, thảo dược cũng là một nguồn khai thác quý giá - liều thuốc của mẹ thiên nhiên, dùng để chữa nhiều căn bệnh trong cuộc sống. Chắc chúng ta ai cũng đã từng được nghe về sách Đỏ - ghi danh những động vật quý hiếm. Đấy, ích lợi của rừng chỉ thế thôi! Rừng giúp cho chúng ta sống khỏe, chặn dòng chảy của thần chết, cứu sống hàng trăm người trong gang tấc, mang ý nghĩa kinh tế, xuất khẩu cao từ những các loại lâm sản… Vậy mà, có ai đã từng thầm cảm ơn rừng chưa?

Tiếp đến là nơi mà ta đứng và sống ngày qua ngày đến “mòn” - đất đai. Con người dù có di cư hay nhập cư thì vẫn phải biết rằng nơi ở luôn là đất. Kể cả động vật trên cạn cũng vậy. Chúng sống thế nào nếu thiếu đất? Đất đai còn là nơi lao động sản xuất của nông dân. Nhờ có đất đai nên trồng trọt, chăn nuôi luôn phát triển. Nhiều vùng đất còn “giấu” trong mình khoáng sản quý giá như: vàng, bạc, đồng… kể cả kim cương để chế tạo thành những nữ trang làm đẹp. Nhà nước còn có thể phát triển kinh tế bằng nguồn tài nguồn khoáng sản, chỉ cần không quá lạm dụng vào nó. Đất đai rộng lớn bao nhiêu thì chứa đựng nhiều điều quý giá bấy nhiêu…

Yếu tố thứ ba cần được nhắc đến là sông ngòi, biển cả. Biển cung cấp muối - gia vị tất yếu trong bữa ăn. Sông ngòi, biển còn mang trong mình thủy, hải sản để chế biến thành những thứ bổ dưỡng như: tôm hùm hấp, cua rang me… Giữa đất đai và sông ngòi luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: trồng trọt trên cạn cung cấp thức ăn cho các loại cá dưới sông và ngược lại, sông ngòi bù đắp phù sa đế việc trồng trọt đạt hiệu quả. Thay vì có “cộng sinh” trong giới động vật thì trong các yếu tố tự nhiên có “cộng phát triển”. Nước sử dụng nhiệt điện để cung cấp điện. Dưới biển cả bí ẩn chứa đựng những mỏ dầu mang giá trị kinh tế cao.

Cuối cùng là nguồn năng lượng tự nhiên “mạnh mẽ” nhất của thế giới: mặt trời. Thử tưởng tượng đến một ngày thiếu mặt trời, thế giới xung quanh ta chỉ là một màu đen. Lúc đó, con người trở nên u mê, yếu ớt bởi mặt trời giúp con người, động thực vật - nói chung là vạn vật phát triển nhưng ít ai biết điều đó. Trong những năm công nghiệp hóa toàn cầu, có lẽ năng lượng mặt trời là năng lượng sạch nhất và đồng thời là phương pháp tối ưu nhất cho năng lượng của trái đất.

Bên cạnh ý nghĩa về mặt vật chất, thiên nhiên còn mang ý nghĩa quan trọng về giá trị tinh thần. Chúng khơi gợi ý tưởng cho các nhà khoa học như Newton: nhờ có quả táo “vĩ đại” mà ông tìm ra được trọng lực; là nguồn cảm hứng của mọi bức tranh, bài tình ca của những nhạc sĩ, họa sĩ nổi tiếng thế giới... Thiên nhiên đem đến cho con người vật chất, niềm vui. Vậy mà con người chỉ trả lại bằng những hậu quả đau thương…

Khí độc gây ô nhiễm môi trường và ra đủ thứ bệnh, từ nhẹ đến tử vong. Nhưng vấn đề lớn nhất hiện nay vẫn là hiệu ứng nhà kính. Các khối lạnh, khí nóng buộc phải di chuyển để rồi làm biến đổi khí hậu đột ngột, điển hình là bão Elmino. Việt Nam nằm trong top 5 nước bị ảnh hưởng mạnh nhất từ biến đổi khí hậu, một phần là do đặc điểm tự nhiên nhưng phần còn lại cũng là do con người.

Môi trường ô nhiễm do nhà máy, rác thải sinh hoạt hàng ngày. Nghiêm trọng nhất hiện nay là bao bì nilon, gây tắc nghẽn cống rãnh. Nilon cần một thời gian rất lâu mới tiêu hủy nên con người phải tìm giải pháp tối ưu hơn. Họ đốt nhưng cũng để lại khí độc, ảnh hưởng đến sức khỏe. Dịch bệnh cũng sẽ phát triển mạnh. Vì vậy, phương pháp tối ưu nhất trong tình trạng lúc này là hạn chế không sử dụng bao nilon, khái quát hơn là bảo vệ môi trường. Vậy chúng ta cần bảo vệ như thế nào và bằng cách nào?

Bảo vệ môi trường không có nghĩa là quá “keo kiệt” trong sử dụng khoáng sản cũng như những nguồn tài nguyên của sông ngòi biển - thủy hải sản. Chúng ta chỉ cần đạt được sự hợp lý trong việc khai thác. Còn đối với cây rừng, con người có thể chặt phá “thoải mái” nhưng cần phải có sự cân bằng giữa số cây khai thác và trồng, đồng nghĩa với câu tục ngữ “trồng cây gây rừng”. Trong sinh hoạt, y tế chắc chắn không tránh khỏi từ rác, vì vậy chúng ta cần phải xử lý triệt để, dứt khoát. Như đã nói trên, bao nilon được sử dụng quá phổ biến mà hại lại nhiều hơn lợi nên cần có giải pháp. Ngược lại với rác sinh hoạt, y tế, chúng ta phải hạn chế sử dụng thay vì sử dụng rồi xử lý. Một số chất liệu có thể thay được bao nilon như: bao sinh thái, bao giấy, vải… Đây là những giải pháp được coi là tối ưu trong tình trạng tạm thời.

Tóm lại, hơi thở của chúng ta gắn liền với thiên nhiên. Khi ta còn tồn tại thì môi trường sống còn nắm một vai trò quan trọng trong đời sống. Thiên nhiên bằng một phép màu nào đó giúp ta cảm nhận được từng nhịp đập cuộc sống, trao giây phút vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng chúng ta cũng cần phải có ý thức bảo vệ chúng để thay lời cảm ơn đối với thiên nhiên. Chúng ta có thể bắt đầu từ những công việc nhỏ nhặt nhất: không bẻ cành, nhặt rác và những chiếc lá rơi…

Câu trả lời:

B