Ôn tập lịch sử lớp 8

Hỏi đáp

seohyun111
Xem chi tiết
Đinh Tuấn Việt
12 tháng 3 2016 lúc 18:33

Sau Mĩ, Nhật Bản là nước thứ hai thu được nhiều lợi và không mất mát gì trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy vậy, nền kinh tế Nhật Bản cũng chỉ phát triển trong một vài năm đầu sau chiến tranh.
Trong vòng 5 năm (1914 - 1919), sản lượng công nghiệp của Nhật Bản tăng; gấp 5 lần Sau chiến tranh, nhiều công ty mới xuất hiện, mở rộng sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ra các thị trường châu Á. Tuy nhiên, nền nông nghiệp không có gì thay đổi, những tàn dư phong kiến còn tồn tại nặng nề ở nông; thôn Giá thực phẩm, nhất là giá gạo tăng cao làm cho đời sống nhân dân rất khó khăn. Đặc biệt là trận động đất lớn tháng 9 - 1923 làm cho thủ đô Tô-ki-ô hầu như sụp đổ hoàn toàn.
Năm 1927. Nhật Bản lại lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính làm 30 ngân hàng phải đóng cửa. Khủng hoảng tài chính đã làm mất lòng tin của nhân dân và giới kinh doanh vào chính phủ, đồng thời chấm dứt sự phục hồi ngắn ngủi của nền kinh tế Nhật Bản.

Võ Thị Kim Dung
Xem chi tiết
Bùi thị diễm Trinh
6 tháng 5 2017 lúc 20:30

Khối kinh tế này được thành lập để kết hợp thế mạnh của cả ba nước, tạo nên một thị trường chung rộng lớn, tăng sức cạnh trạnh nên thị trường thế giới

Hoa Kì và Ca-na-đa là hai quốc gia có nền kinh tế phát triển cao, công nghê hiện đại. Mê-hi-cô có nguồn lao động dồi dào, giá rẻ.

Trong nội bộ NAFTA, Hoa Kì chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài vào Mê-hi-cô, hơn 80% kim ngạch xuất khẩu của Ca-na-đa.

Võ Đông Anh Tuấn
14 tháng 3 2016 lúc 18:18

Khối kinh tế này được thành lập để kết hợp thế mạnh của cả ba nước, tạo nên một thị trường chung rộng lớn, tăng sức cạnh trạnh nên thị trường thế giới

 

Hoa Kì và Ca-na-đa là hai quốc gia có nền kinh tế phát triển cao, công nghê hiện đại. Mê-hi-cô có nguồn lao động dồi dào, giá rẻ.

 

Trong nội bộ NAFTA, Hoa Kì chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài vào Mê-hi-cô, hơn 80% kim ngạch xuất khẩu của Ca-na-đa

Anh Cao Quang
19 tháng 12 2017 lúc 9:46

Khối kinh tế này thành lập để kết hợp thế mạnh của ba nước, tạo nên một thị trường chung rộng lớn, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Ôn tập lịch sử lớp 8

nguyễn nữ quỳnh anh
Xem chi tiết
Huỳnh Thị Thanh Ngân
11 tháng 8 2021 lúc 10:06

Sau khi đánh thắng nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long (1802). Trong suốt thời gian Gia Long trị vì (1802-1819)  về nội trị tương đối ổn định dù rằng có một số vùng dân chúng  nổi lên chống lại triều đình, nhất là ở khu vực Đàng Ngoài với cả hàng chục vụ, nhưng đây chỉ là những cuộc nổi dậy lẻ tẻ, thế lực quá yếu, chỉ quấy phá ở một vài phủ huyện chẳng bao lâu sau đã bị dẹp tắt ngay.  Nhưng sang đời vua Minh Mạng (1820-1840) đã có những  cuộc nổi dậy với quy mô rộng lớn  ở đất Bắc Kỳ như cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành (1821-1827), cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương (1826-1833) ở Ninh Bình, Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân (1833-1835) nổi lên ở Cao Bằng quấy phá mấy tỉnh vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn và cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi ở đất lục tỉnh Nam Kỳ. Trong những cuộc khởi nghĩa kể trên, kiệt hiệt hơn cả, đó là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi trong năm 1833, chỉ trong vòng 1 tháng trời, quân của Khôi đã chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ, Khôi tự phong là đại nguyên suý và phong chức tước cho các đồ đảng chẳng khác chi một triều đình và phải cần đến gần 3 năm quan quân của triều đình mới phá tan được cứ điểm cố thủ cuối cùng của loạn quân là thành Bát Quái (nay nằm trong địa phận Sài Gòn)! Vậy mà ca dao lịch sử hầu như không ghi lại câu nào gọi là để kỷ công cho Lê Văn Khôi mà ngày nay chúng ta chỉ được biết có mỗi một câu nêu rõ tên của Khôi nhưng lại là một câu tỏ ý trách móc :

                        Bao giờ bắt được giặc Khôi,

                        Cho yên giặc nước chồng tôi mới về !

 

            Cùng thời với câu ca dao trên còn một câu nữa cũng tỏ ý trách móc Lê Văn Khôi đã gây ra cuộc binh biến khiến cho quân lính đương thời phải vất vả mệt nhọc. Vào thời Minh Mạng (1820-1840), bến Trường Tiền và bến Bồ Đề thuộc kinh đô Phú Xuân là nơi đồn trú của 2 đội Thủy sư. Trong mấy năm đầu, quân triều đình tại các trấn Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đều bị quân của Khôi đánh cho liểng xiểng. Để đối phó với tình thế, sau khi một tướng của Khôi là Thái Công Triều, nguyên là một vị quan của triều đình theo Khôi làm phản nhưng sau đó đã về qui phục Triều đình xin đới công chuộc tội, Minh Mạng đã điều động 2 toán quân Thủy sư tại kinh đô vào Nam tham chiến. Đội quân kinh đô được gọi là quân Trấn Vũ chưa từng chinh chiến nơi xa nên ra đi mà trong lòng lo sợ không yên:

Nơi bến Trường Tiền có cây đa bóng mát

Gần bến Bồ Đề có bãi cát phẳng lì

Trời ơi, sanh giặc làm chi

Để quân Trấn Vũ phải ra đi cơ hàn!

 

            Trước cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi hơn 10 năm, tại đất Nam Định xứ Đàng Ngoài  đã có cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành.

Tháng giêng năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Phan Bá Vành đã lãnh đạo nghĩa binh lập căn cứ ở Trà Lũ (Nam Định) nổi lên khởi nghĩa chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã kéo dài gần 6 năm, hoạt động khắp các tỉnh ven biển từ Nam Định, Thái Bình đến Quảng Yên, có khi nghĩa quân hoạt động đến tận Sơn Tây, kéo vào đến Hòa Bình, Thanh Hóa. Đến năm Minh Mạng thứ 7 (1826), Phan Bá Vành lại liên kết với nghĩa binh của Võ Đức Cát và Nguyễn Hạnh đánh phá các phủ Trà Lý và Lân Hải (tháng 2 Bính Tuất, 1826), 2 quan thủ ngự của triều đình  là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn đều bị hại. Quan trấn thủ Nam Định là Lê Mậu Diễn đem quân tiếp cứu cũng bị nghĩa binh giết chết. Thế của nghĩa quân mạnh như nước vỡ bờ, quân các trấn hiệp lực chống cự cũng rất khó khăn nhưng rồi đến cuối năm, một thủ lãnh của nghĩa quân là Lê Đức Cát bị thống chế Trương Phước Đặng vây bắt ở làng Đông Hào, Giao Thủy đem giết đi. Sau cái chết của Lê Đức Cát, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh liên kết với giặc Khách đang hoành hành ngoài biển đem 5000 quân vây khổn 2 huyện Tiên Minh và Nghi Dương ở Hải Dương. Trước thế mạnh của quân khởi nghĩa, Minh Mạng sai 2 tướng tài là quan tham hiệp Thanh Hóa Nguyễn Công Trứ, quan tham hiệp Nghệ An Nguyễn Hữu Thận cùng quan quân 2 tỉnh Thanh Nghệ hiệp với quân của quan hiệp trấn Bắc Thành cố tiêu diệt cho được cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành. Không nao núng trước lực lượng hùng hậu của triều đình, sang đầu năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) Phan Bá Vành lại cho quân chiếm 2 phủ Xuân Trường và Kiến Xương (Nam Định), vây khổn quân của Phạm Đình Bửu ở Chợ Quán khiến Nguyễn Công Trứ và Phạm Văn Lý phải dốc toàn lực để giải vây. Trước sức phản công mãnh liệt của quân triều đình, cuối cùng Phan Bá Vành cùng bộ hạ lại kéo nhau trở về Trà Lũ đào hào, đắp thành cố thủ. Bị vây ngặt, Phan Bá Vành định lợi dụng đêm hôm tìm đường thoát thân ra biển nhưng rồi, vào tháng hai năm Đinh hợi (1827), sau hơn 1 tháng cố thủ, quan quân triều đình vây bắt được Phan Bá Vành cùng 760 đồ đảng đem về trị tội. Cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành chấm dứt sau hơn 6 năm tung hoành trên địa bàn đất Bắc.

Như ta đã biết, trên đất Bắc, đồng thời với cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành còn có những cuộc khởi nghĩa qui mô khác như của Lê Duy Lương, Nồng Văn Vân . . .Trong những câu ca dao được xem là ca dao lịch sử còn lưu truyền cho đến ngày nay, hầu như không có câu nào nhắc đến tên tuổi của các thủ lãnh kể trên, trong lúc đó thì cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành ở đất Nam Định lại có nhiều câu ca dao nhắc đến hơn cả :

* Trên trời có ông sao Tua

Ở làng Nguyệt (Minh) Giám có vua Ba Vành

Phương Đông quật lũ hung tinh

Làm cho bảy viện tan tành ra tro

 

* Trên trời có ông sao Tua

Cầu Đông, bến Đá có vua Ba Vành

 

* Trên trời có ông sao Tua

Ở dưới mạn biển có vua Ba Vành

 

*Trên trời có ông sao Tua

Ba làng Trà Lũ có vua Ba Vành

 

Nhận xét đầu tiên của chúng ta là các câu trên đây đều có câu “lục” (tức câu thơ sáu chữ của thơ lục bát) giống nhau :

                        Trên trời có ông sao Tua !

 

            Đây là một hình thức cấu tạo những câu ca dao mới cùng chung với nội dung của câu đầu tiên hoặc phản bác với nội dung của câu đầu tiên.

 

Các câu ca dao trên có chung một nội dung “tiên tri” nhằm ca tụng Phan Bá Vành, thủ lãnh của một cuộc khởi nghĩa đã làm cho quan quân của triều đình Minh Mạng phải nhiều phen thất điên bát đảo! Quả thực, đây chỉ là một “tiên tri” mang tính chất tuyên truyền vì thực tế chưa bao giờ Phan Bá Vành là vua và trong suốt thời gian lãnh đạo khởi nghĩa, ông cũng chưa bao giờ tự xưng là vua!

 

            Các câu “bát” ở dưới đều xưng tụng Phan Bá Vành là “Vua” (Vua Ba Vành) và mỗi câu xuất hiện ở một địa phương nơi mà nghĩa quân Phan Bá Vành đã gây được nhiều thanh thế, tạo được nhiều chấn động nhân tâm trong quần chúng : làng Minh Giám hay làng Nguyệt Giám là làng sinh quán của Phan Bá Vành ; “Cầu Đông, Bến Đá” hay “Ở dưới mạn biển” là những vùng mà cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã từng hoạt động ! “Ba làng Trà Lũ” tức các làng Trà Trung, Trà Bắc và Trà Đoài thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định vừa là cứ điểm xuất phát, vừa là cứ điểm cố thủ cuối cùng của nghĩa quân Phan Bá Vành.

 

            Những câu ca dao trên đây lúc đầu chắc hẳn đã xuất hiện trong hàng ngũ  nghĩa quân Phan Bá Vành để làm công cụ tuyên truyền và cứ qua mỗi địa phương quan trọng, câu thơ tuyên truyền lại được thay đổi địa danh như ta đã thấy ở trên và có thể là trong buổi đầu, khi câu ca dao xuất hiện lần đầu tiên, nó được tuyên truyền như một “câu sấm” tiên tri Phan Bá Vành “sẽ là Vua”. Đây là một thủ đoạn chính trị mà các thủ lãnh khởi nghĩa đôi khi đã phải dùng để tự gây thanh thế cho mình như câu chuyện “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc xâm lăng nhà Minh (1417-1427). Vả lại, trong thời đại phong kiến, các thủ lãnh khởi nghĩa chống lại triều đình đều nhằm mục đích tối hậu: hoặc khởi nghĩa vì mục đích cần vương (tức ủng hộ cho một dòng họ đã bị thoán đoạt quyền hành) như những cuộc khởi nghĩa lấy danh nghĩa phù Lê, hoặc chính thủ lãnh khởi nghĩa có tham vọng diệt triều đại thối nát đương quyền để tự mình lên ngôi cửu ngũ như cuộc khởi nghĩa của anh em Tây Sơn với sự lên ngôi của Nguyễn Nhạc và về sau là của Nguyễn Huệ. Và có như vậy, các thủ lãnh khởi nghiã mới kêu gọi được sự hợp tác của từng lớp sĩ phu và của cả dân chúng ;  và chúng ta có thể suy đoán câu ca dao đã xuất hiện gần như đồng thời với sự kiện nhằm mục đích gây thanh thế cho người thủ lãnh của phong trào tức Phan Bá Vành trong quảng đại quần chúng.

 

            Những câu ca dao mang tính tuyên truyền như trên đã ăn sâu vào tâm thức của quảng đại quần chúng đương thời, dù ít dù nhiều cũng đã gây được ảnh hưởng tốt trong dân chúng và nhờ vậy mà chúng đã được bảo lưu cho đến ngày nay.

 

            Câu ca dao sau đây cũng nhắc đến “vua Ba Vành” nhưng chắc hẳn nó đã không xuất hiện cùng thời với sự kiện Phan Bá Vành khởi nghĩa mà nó chỉ xuất hiện muộn về sau nhằm thẩm định giá trị của thủ lãnh Phan Bá Vành, và rõ ràng cuộc khởi nghĩa của ông tuy không thành công nhưng cũng đã để lại trong lòng dân chúng vùng quê hương ông một mối cảm tình tốt đẹp :

                        * Chẳng vui cũng thể hội chùa

Chẳng ngai, chẳng hốt cũng vua Ba Vành

 

Ngày nay, chúng ta đã có thể sưu tập hàng trăm câu ca dao được gọi là ca dao lịch sử. Trong hàng trăm câu đó, họa hoằn chúng ta mới bắt gặp dăm ba câu có nhắc đến tên một vài thủ lãnh khởi nghĩa một cách rõ ràng chính xác như mấy câu ca dao lịch sử trên đây. Đây cũng là một điều đáng để cho chúng ta lưu tâm tìm hiểu.

 

Như chúng ta có thể cảm nhận, dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất nhưng lại rất hiếu hòa. Bất khuất trước kẻ thù xâm lược, bất khuất trước những áp bức bất công, hà khắc của cường quyền, nhưng sau khi tinh thần bất khuất đã được biểu lộ hay đã tạo nên chiến thắng rồi thì tinh thần hiếu hòa lại là tinh thần chủ đạo trong cuộc sống. Họ không mấy khi nhắc đến chiến công. Họ không mấy khi miệt thị kẻ thù.

 

Thời nhà Lý (1010-1225), Lý Thường Kiệt đã đem quân đánh thẳng sang đất nước Trung Hoa hàng năm trăm dặm (1075), đã chiến thắng oanh liệt quân nhà Tống trên sông Như Nguyệt (1076) cũng chỉ được nhắc đến một cách nhẹ nhàng, không hận thù, không khoa trương:

            Nực cười châu chấu đá xe,

            Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng!

 

Thời nhà Tây Sơn (1788-1802), Quang Trung Nguyễn Huệ đã lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh thắng 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, tạo nên chiến tích Đống Đa lừng lẫy (ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, 1789). “Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn” (VNSL, II, 134). Và về sau dân chúng còn lập cả đền thờ để thờ những linh hồn oan khuất của binh lính Mãn Thanh tử trận tại gò Đống Đa thuộc Hà Nội ngày nay:

            Đống Đa ghi dấu lại đây,

            Bên kia Thanh miếu, Bên này Bộc am!

 

Đây là tinh thần hiếu sinh và hiếu hòa của dân tộc Việt Nam.

Họ biết ơn tất cả những anh hùng liệt nữ đã từng lãnh đạo họ trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, những cuộc khởi nghĩa chống cường quyền – dù thành công hay thất bại – với mục đích tối thượng là mưu cầu cuộc sống tự do hơn, no ấm hơn cho họ, đem họ thoát khỏi mọi gông cùm áp bức của ngoại bang hay của cường quyền, nhưng lòng biết ơn đó được thể hiện bằng cách thờ phượng như những vị thần “bảo quốc hộ dân” như đền Đồng Nhân ở Hà Nội thờ Hai Bà Trưng hằng năm tổ chức lễ hội từ ngày 3 đến ngày 6 tháng hai âm lịch ; bà Triệu Thị Trinh được lập đền thờ trên núi Gai thuộc làng Phú Điền, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa) hằng năm tổ chức lễ hội vào ngày 21 tháng hai âm lịch ; đền Trúc thuộc tỉnh Hà Nam thờ Lý Thường Kiệt, hằng năm tổ chức lễ hội từ ngày 6 đến ngày 10 tháng hai âm lịch ; đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Trần Hưng Đạo mà dân chúng đã tôn xưng là Đức Thánh Trần, hằng năm tổ chức lễ hội từ ngày 18 đến ngà 20 tháng tám âm lịch ;  như đền thờ Lê Văn Duyệt được dân chúng tôn xưng là Lăng Ông ở sài Gòn, lễ giỗ được tổ chức vào 3 ngày cuối tháng 7 sang đầu tháng 8 âm lịch và vào những ngày đầu Xuân hầu như không lúc nào ngớt hương khói . . . bởi vì “các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước, lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ” ( PKB, 59) chứ không mấy khi đặt ca vè để truyền tụng. Vì vậy mà, trong suốt dọc trường kỳ dựng nước và giữ nước đã có biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ được ghi tên trong sử sách nhưng đã có mấy ai được nhắc nhở đến trong văn chương truyền khẩu của dân gian, đặc biệt là trong ca dao?

Nguyen Thi Phuong Thao
Xem chi tiết
Lan Anh
15 tháng 3 2016 lúc 13:00

*Nêu tinh thần kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược của nhân dân ta từ năm 1858 -> năm 1873:

-  Nhân dân chủ động đứng lên kháng chiến với tinh thần cương quyết dũng cảm. Khi triều đình đầu hàng, nhân dân tiếp tục kháng chiến mạnh hơn trước, bằng nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo.          

 
Khả Trình
Xem chi tiết
Hà Như Thuỷ
28 tháng 3 2016 lúc 20:01

Chỉ cần nhìn vào các sự kiện theo mốc thời gian là thấy rõ quá trình đầu hàng của nhà Nguyễn. 

Năm 1859, Pháp chiếm Gia Định. Năm 1860, Pháp dồn lực lượng vào cuộc chiến với Trung Hoa. Nhà Nguyễn không tận dụng được thời cơ giải phóng Gia Định mà án binh bất động. 1861, Pháp chiếm Định Tường. Nhà Nguyễn chủ trương nghị hoà. Cuối năm 1861 đầu 1862, Pháp đánh Biên Hoà. Bà Rịa, Vĩnh Long..., quan quân nhà Nguyễn tháo chạy. Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862) được ký, theo đó nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Pháp, cùng với những nhượng bộ khác rất nặng nề như: mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho tư bản Pháp tự do buôn bán, bồi thường cho Pháp 4 triệu france... 

Năm 1867, chỉ trong vòng vài ngày, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào. 

Năm 1873, Pháp đánh Hà Nội. Nhà Nguyễn không có phản ứng nên Pháp nhân cơ hội chiếm luôn các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình... Quân và dân địa phương chiến đấu nhưng triều đình Huế không ủng hộ, trái lại còn ra lệnh bắt họ rút lui (điển hình là trường hợp Hoàng Tá Viêm). Năm 1874, hiệp ước Giáp Tuất được ký kết, theo đó nhà Nguyễn nhượng Pháp thêm 3 tỉnh miền Tây, mở cửa sông Hồng, cửa Thị Nại, Hải Phòng, Hà Nội cho Pháp buôn bán và đặt lãnh sự, truy bắt và giải nộp cho Pháp những người nổi loạn ở Nam Kỳ trốn ra phía Bắc. Hiệp ước 1874 đánh dấu bước mới trong quá trình đầu hàng của triều Nguyễn. 

Năm 1883, Pháp đánh kinh thành Huế. Nhà Nguyễn ký điều ước Harmand thừa nhận quyền "bảo hộ" của Pháp ở nước ta. Năm 1884, Hiệp ước Patenôtre ký ngày gồm 19 điều khoản, xác định rõ thêm vai trò “bảo hộ” của nước Pháp đối với Việt Nam. Nước ta bị chia cắt làm ba: Nam Kỳ thuộc địa, Bắc Kỳ “bảo hộ” (thực chất do các công sứ Pháp trực trị) và Trung Kỳ của Nam triều do khâm sứ Pháp điều khiển. Hiệp ước Patenôtre hoàn toàn biến nước ta thành thuộc địa của Pháp. Nói cách khác, đến đây triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược.

Khả Trình
Xem chi tiết
qwerty
28 tháng 3 2016 lúc 21:11

1. Âm mưu của Pháp khi tấn công Đà Nẵng? Chúng đã bị thất bại ra sao?
        + Đà Nẵng là cảng nước sâu vì vậy tàu chiến có thể hoạt động dễ dàng.   
        + Có thể dùng Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công Huế,buộc triều Nguyễn phải đầu hàng, kết thúc nhanh chóng cuộc xâm lược Việt Nam.
        Đà Nẵng còn là nơi thực dân Pháp xây dựng được cơ sở giáo dân theo  Kitô, chúng hy vọng được giáo dân ủng hộ. Vì vậy, sáng ngày 1/9/1858 từ các tàu neo đậu ở cửa biển Đà Nẵng, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nã đại bác lên bờ, rồi cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Nguyễn  Tri Phương đã đốc thúc quân, dân xây dựng phòng tuyến liên trù dài 3 km để chặn giặc ngay tạI cửa biển. Nhân dân còn dùng cột tre thùng gỗ đựng đầy đất đá lấp sông Vĩnh Điện để chặn tàu chiến địch. Nhân dân vùng ven biển kiên cường chống trả quân xâm lược, khiến địch thất bại trong âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh. Tây Ban Nha nản chí bỏ cuộc. Pháp phải thay đổi kế hoạch. Tháng 2/1859 quay mũi tấn công vào Gia Định để thực hiện âm mưu mới “chinh phục từng gói nhỏ”.
2.Vì sao đầu năm 1859 Pháp lại đánh vào Gia Định mà không đánh ra Bắc Kì?
Gia Định xa TQ sẽ tránh đựơc sự can thiệp của nhà Thanh.
Xa kinh đô Huế, sẽ tránh được sự tiếp viện của của triều đình Huế.
Chiếm được GĐ coi như chiếm được kho lúa gạo của triều dình Huế, gây khó khăn cho triều đình.
Đánh xong GĐ, sẽ theo đường sông Cửu Long, đánh ngược lên Campuchia và làm chủ lưu vực sông Mê-Kông.
Pháp phải hành động gấp, vì: TB Anh sau khi chiếm Singapo và Hương Cảng cũng đang ngấp nghé chiếm Sài Gòn. 
( Vì tất cả những lí do trên, Pháp quyết định đánh chiếm Gia Định(2(17-2-1859).
3. Hoàn cảnh ra đời và nội dung Hiệp ước Nhâm Tuất(1862)? Em đánh giá như thế nào về Hiệp ước Nhâm Tuất, về triều đình Nguyễn qua việc kí kết Hiệp ước này?
a. Hoàn cảnh ra đời:
- 23/2/1861 tấn công & chiếm được đồn Chí Hoà.
- Thừa thắng P chiếm 3 tỉnh miền Đông NK Định Tường (12/4/1861), Biên Hoà (18/12/1861), Vĩnh Long (23/3/1862)
( Triều đình nhà Nguyễn chủ động kí Hoà ước Nhâm Tuất 5/6/1862.
b. Nội dung:
- Triều đình nhượng cho P 3 tỉnh miền đông NK (GĐ, ĐT, BH); Bồi thường 20 triệu quan…
Triều đình mở các cửa biển: dà nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên; cho thương nhân P & TBN tự do buôn bán.
- P trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình, với điều kiện triều đình chấm dứt các hoạt động chống P ở 3 tỉnh miền Đông.
c. Đánh giá: 
-  Đây là 1 hiệp ước mà theo đó VN phải chịu nhiều thiệt thòi, vi phạm chủ quyền lãnh thổ của VN.
-  Hiệp ước chứng tỏ thái độ nhu nhược của triều đình, bước đầu nhà Nguyễn đã đầu hàng TD Pháp.
3.Từ sau Hiệp ước Nhâm Tuất(1862), phong trào kháng chiến của nhân dân Nam Kì có điểm gì mới? 
- Những nét mới:
Độc lập với triều đình.
Vừa chống P vừa chống PK(…)
Gặp nhiều khó khăn do thái độ không hợp tác của triều đình.
BÀI 20: CHIẾN SỰ LAN RỘNG RA TOÀN QUỐC CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN   TA TỪ 1873 – 1884. NHÀ NGUYỄN ĐẦU HÀNG
1. Khi Pháp đánh ra Bắc Kì lần I (1873-1874), Triều đình nhà Nguyễn đã đối phó ra sao? Em hãy trình bày cuộc kháng chiến của nhân dân Bắc Kì?
a. PT kháng chiến của triều đình:
- Khi P đánh thành HN, 100 binh lính triều đình chiến đấu & hy sinh ở thành Ô Quan Chưởng.
- Trong thành, Tổng đốn Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân sĩ chiến đấu (Ong hy sinh, thành HN thất thủ
b. PT kháng chiến của nhân dân:
- Nhân dân chủ động chống P = việc không hợp tác..
- 21/12/1873 trận Cầu Giấy giết chết Gacniê(P hoang mang
- Năm 1874 triều đình kí với Pháp  HƯ Giáp Tuất chính thức thừa nhận 6 tỉnh NK thuộc Pháp.
(Gây ra làn sóng bất bình trong nhân dân (PT kháng chiến chống  TDP & PK 
2.Vì sao đến năm 1883 Pháp mới đánh ra Thuận An? Chiến sự ở đây đã diễn ra như thế nào? Kết quả?
- Lợi dụng tình hình triều đình rối ren 1883: Vua Tự  Đức qua đời(17-7-1883), triều đình còn đang chọn người kế vị( vì vua Tự Đức không có con)(P quyết định  đánh thẳng vào Huế.
- Ngày 18/8/1883 P tấn công Thuận An.
- Chiều 20/8/1883 P đổ bộ lên bờ & làm chủ được Thuận An.
3. Hoàn cảnh kí kết và nội dung của Hiệp ước 1883-1884 (Hác-măng và Pa-tơ-nốt)
a. Hoàn cảnh lịch sử:
- Nghe tin P đánh Thuận  An, triều đình Huế xin đình chiến.
- 25/8/1883 Bản hiệp ước mới được đưa ra buộc ta phải kí (gọi là Hiệp ước Hác-măng)
b. Nội dung HU :
- Nhà Nguyễn thừa nhận sự bảo hộ của P trên toàn cõi VN. Trong đó:
- NK là thuộc địa
- BK là đất bảo hộ
- TK triều đình quản lí
- Đại diện P ở Huế trực tiếp điều khiển các công việc ở TK.
- Ngoại giao VN là do P nắm giữ.
*QS: P tự do đóng quân ở BK & toàn quyền xử lí quân Cờ Đen. Triều đình nhận các huấn luyện viên & sĩ quan chỉ huy của P, triệt hồi binh lính từ B.Kì về Huế.
*KT: P nắm & kiểm soát toàn bộ các nguồn lợi trong nước.
( VN trở thành một nước thuộc địa nửa PK.
* 6/6/1884 P kí Hư Patơnốt nhằm xoa dịu dư luận & mua chuộc bọn PK.
( Đến năm 1884,  với 2 bản H.ước trên, TDPháp căn bản hoàn thành công cuộc chinh phục VN.
4. Em hãy rút ra nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược trong giai đoạn 1858 - 1884?
- Do lực chênh lệch về lực lượng kháng chiến, trang bị về vũ khí.
- Triều đình bỏ dân, quan lại hèn nhát( kháng chiến của nhân dân mang tính tự phát.
- Triều đình nhu nhược, đường lối kháng chiến không đúng đắn, không đoàn kết 


Bài 21:    PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA
NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỈ XIX
Câu hỏi
Câu 1: Em hãy cho biết phong trào Cần Vương bùng nổ trong hoàn cảnh nào?
   - Sau Hiệp ước Hácmăng năm 1883 và Patơnốt năm 1884 thực dân Pháp bắt đầu thiết lập chế độ bảo hộ ở Bắc Kì và Trung Kì. 
   - Phong trào chống Pháp của nhân dân ta tiếp tục phát triển.Dựa vào đó phái chủ chiến trong triều đình do Tôn Thất Thuyết đứng đầu mạnh tay hành động.
   - Những hành động của phái chủ chiến nhằm chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy chống Pháp giành chủ quyền đất nước
   - Trước sự uy hiếp cuả kẻ thù, phái chủ chiến đứng đầu là Tôn Tất Thuyết quyết định đánh trước để giành thế chủ động.
   - Cuộc phản công kinh thành Huế của phái chủ chiến đêm 4 ngày 5 tháng 4 năm 1885 cuối cùng bị thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi rời khỏi Hoàng thành lên Tân Sở (Quảng Trị). 13/7/1885 lấy danh nghĩa Hàm Nghi, ông hạ chiếu Cần vương, kêu gọi nhân dân  giúp vua cứu nước.
   - Chiếu Cần vương thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của nhân dân ta, phong trào kéo dài 12 năm 

Câu 2: Trình bày các giai đoạn phát triển của phong trào Cần Vương ?
* 1885-1888:
   - Lãnh đạo: Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi, các văn thân sĩ phu yêu nước
   - Lực lượng tham gia: Đông đảo quần chúng nhân dân, có cả dân tộc thiểu số.
   - Địa bàn hoạt động:  Chủ yếu ở Bắc và Trung Kỳ
   - Khởi nghĩa tiêu biểu: Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng, Phạm Bành, Đinh Công Tráng....
   - Bộ chỉ huy của phong trào đóng tại vùng rừng núi phía Tây 2 tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
   - Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt và  lưu đày sang Angiờri.
* 1888-1896:
   - Lãnh đạo: Các văn thân, sĩ phu yêu nước.
   - Lực lượng tham gia: Đông đảo quần chúng nhân dân, có cả dân tộc thiểu số.
   - Địa bàn hoạt động: Phạm vi thu hẹp dần, quy tụ thành các trung tõm khởi nghĩa lớn ở trung du và miền núi như Hưng Yên, Thanh Hoá, Hà Tĩnh.
   - Khởi nghĩa tiêu biểu: Khởi nghĩa Ba Đình, Hương Khê... Năm  1896, Phỏp dập tắt cuộc khởi nghĩa Hương Khê, đánh dấu sự kết thúc của phong trào Cần Vương.
* Mục tiêu: Đánh Pháp, giành độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền đất nước, lập lại chế độ phong kiến.
* Tính chất: Phong trào Cần vương là phong trào yêu nước của dân tộc ta, diễn ra theo khuynh hướng và ý thức hệ phong kiến, thể hiện  tính dân tộc sâu sắc.

Câu 3: Em hiểu thế nào về phong trào Cần Vương? Trình by nội dung cơ bản và ý nghĩa của chiếu Cần Vương ?
* Phong trào Cần Vương: là phong trào phò vua, giúp vua Hàm Nghi chống giặc cứu nước.
* Nội dung: 
   - Tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp.
   - Lên án sự phản bội của một số quan lại, tính bất hợp pháp của triều đình Đồng Khánh do Pháp mới dựng lên.
   - Khích lệ sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước quyết tam kháng chiến chống Pháp đến cùng.
* Việc . . .có ý nghĩa: Chiếu Cần vương kêu gọi văn thân, sĩ phu, nhân dân ra sức giúp vua vì mục tiêu đánh Pháp, khôi phục nền độc lập dân tộc, lập lại chế độ phong kiến có vua hiền, vua giỏi.
   - Khẩu hiệu “Cần vương” đã nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu nước cháy âm ỉ bấy lâu, một phong trào vũ trang chống Pháp diễn ra sôi nổi, liên tục kéo dài 12 năm, đến cuối TK XIX mới chấm dứt.
   -Trước đây nhà Nguyễn chưa một lần hiệu triệu nhân dân đứng lên cứu nước, vì vậy phong trào “Cần vương” đã nhanh chóng qui tụ được lực lượng.

Câu 4: Đánh giá về phong trào Cần vương 
   - Ưu điểm:
     + Phát huy cao độ lòng yêu nước, huy động sự ủng hộ của đông đảo nhân dân; tranh thủ sự giúp đỡ mọi mặt của đồng bào.
     + Biết sử dụng các phương thức tác chiến linh hoạt, khai thác sức mạnh tại chỗ, phát huy tính chủ động sáng tạo trong cách đánh, lối đánh của cuộc chiến tranh.
   - Hạn chế:
     + Chưa liên kết tập họp được lực lượng dân tộc trên quy mô rộng, tạo thành phong trào trong toàn quốc.
     + Phong trào Cần Vương nổ ra lẻ tẻ, rời rạc; chưa tạo thành sự kết giữa các cuộc khởi nghĩa.Thể hiện tư duy phòng ngự bị động của ý thức hệ phong kiến: đào hào, đắp lũy, xây dựng căn cứ ở nơi cố định.

Câu 5: Nguyên nhân thất bại và bài học kinh nghiệm  của phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX?
*Nguyên nhân thất bại 
   - Thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn. Ngọn cờ phong kiến đã lỗi thời, không thể tập hợp, đoàn kết để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp.
    - Thiếu sự thống nhất, phối hợp giữa các cuộc khởi nghĩa với nhau.
    - Cách đánh giăc chủ yếu là dựa vào địa thế hiểm trở (như khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi Sậy…)
    - Thực dân Pháp còn mạnh, tương quan lực lương bất lợi cho ta…
*Bài học kinh nghiệm:
    - Cần có một lực lượng xã hội tiên tiến, có đủ năng lực lãnh đạo.
    - Phải có sự phối hợp giữa các cuộc khởi nghĩa.
    - Phải chủ động, linh hoạt trong cách đánh…Trong phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, hãy tóm tắt diễn biến và nêu đặc điểm của phong trào Cần Vương.

Câu 6: Nêu đặc điểm chung và nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương.
* Đặc điểm chung:
   - Phạm vi hoạt động: rộng lớn, diễn ra trên phạm vi cả nước, chủ yếu là Trung, Bắc Kì, về sau chuyển về vùng trung du, miền núi.
   - Lãnh đạo: gồm các văn thân sĩ phu yêu nước.
   - Mục tiêu chung: đánh Pháp, giành lại độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền đất nước, lập lại chế độ phong kiến.
   - Lực lượng tham gia: các văn thân sĩ phu yêu nước và nông dân, đồng thời có các tộc người thiểu số.
   - Hình thức đấu tranh: khởi nghĩa vũ trang.
   - Kết quả: phong trào kéo dài hơn 10 năm, gây cho địch nhiều thiệt hại nhưng cuối cùng đã thất bại.
* Nguyên nhân thất bại:
   - Văn thân, sĩ phu còn chịu nhiều ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến.
   - Khẩu hiệu Cần Vương chỉ đáp ứng một phần nhỏ yêu cầu của nhân dân còn về cơ bản chưa giải quyết triệt để yêu cầu khách quan của sự tiến bộ xã hội vì thế sức hấp dẫn của khẩu hiệu này đối với nông dân bị hạn chế.
   - Do sự chênh lệch lực lượng cũng như vũ khí giữa quân ta và địch.
   - Các cuộc khởi nghĩa nổ ra còn rời rạc không có sự đoàn kết thống nhất nên dễ bị quân Pháp đàn áp.
   - Bị chi phối bởi quan điểm Nho giáo nên những người lãnh đạo thường phiêu lưu mạo hiểm, ít chú ý đến điều kiện đảm bảo thắng lợi choo cuộc khởi nghĩa, dễ dao động khi bị dồn vào thế bí hiểm tìm đến cái chết một cách mù quáng.
=> Thiếu một giai cấp tiên tiến đủ sức lãnh đạo. 

Hà Nguyễn Thu
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Diễm Quỳnh
21 tháng 1 2018 lúc 9:56

4. Triều đình Huế kí Hiệp ước Giáp Tuất vì :
- Triều đình Huế quá đề cao và sợ thực dân Pháp, không tin vào sức mạnh của nhân dân và cho rằng khó có thể thắng được quân Pháp.
- Triều đình Huế muốn hoà với Pháp để bảo vệ quyền lợi của dòng họ và giai cấp.
-Ảo tưởng dựa vào con đường thương thuyết để giành lại những vùng đất đã mất.
 

Thúy Nga
Xem chi tiết
Huy Giang Pham Huy
26 tháng 3 2017 lúc 20:33


Năm 1859, Pháp chiếm Gia Định. Năm 1860, Pháp dồn lực lượng vào cuộc chiến với Trung Hoa. Nhà Nguyễn không tận dụng được thời cơ giải phóng Gia Định mà án binh bất động. 1861, Pháp chiếm Định Tường. Nhà Nguyễn chủ trương nghị hoà. Cuối năm 1861 đầu 1862, Pháp đánh Biên Hoà. Bà Rịa, Vĩnh Long..., quan quân nhà Nguyễn tháo chạy. Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862) được ký, theo đó nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Pháp, cùng với những nhượng bộ khác rất nặng nề như: mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho tư bản Pháp tự do buôn bán, bồi thường cho Pháp 4 triệu france...

Năm 1867, chỉ trong vòng vài ngày, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào.

Năm 1873, Pháp đánh Hà Nội. Nhà Nguyễn không có phản ứng nên Pháp nhân cơ hội chiếm luôn các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình... Quân và dân địa phương chiến đấu nhưng triều đình Huế không ủng hộ, trái lại còn ra lệnh bắt họ rút lui (điển hình là trường hợp Hoàng Tá Viêm). Năm 1874, hiệp ước Giáp Tuất được ký kết, theo đó nhà Nguyễn nhượng Pháp thêm 3 tỉnh miền Tây, mở cửa sông Hồng, cửa Thị Nại, Hải Phòng, Hà Nội cho Pháp buôn bán và đặt lãnh sự, truy bắt và giải nộp cho Pháp những người nổi loạn ở Nam Kỳ trốn ra phía Bắc. Hiệp ước 1874 đánh dấu bước mới trong quá trình đầu hàng của triều Nguyễn.

Năm 1883, Pháp đánh kinh thành Huế. Nhà Nguyễn ký điều ước Harmand thừa nhận quyền "bảo hộ" của Pháp ở nước ta. Năm 1884, Hiệp ước Patenôtre ký ngày gồm 19 điều khoản, xác định rõ thêm vai trò “bảo hộ” của nước Pháp đối với Việt Nam. Nước ta bị chia cắt làm ba: Nam Kỳ thuộc địa, Bắc Kỳ “bảo hộ” (thực chất do các công sứ Pháp trực trị) và Trung Kỳ của Nam triều do khâm sứ Pháp điều khiển. Hiệp ước Patenôtre hoàn toàn biến nước ta thành thuộc địa của Pháp. Nói cách khác, đến đây triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược.

lê thị phương anh
Xem chi tiết
Nguyễn Trang Như
10 tháng 4 2016 lúc 9:38

Vì sau chiến tranh thì trật tự thế giới được chia lại, nhiều nước ở châu Á bị xâm chiếm ác liệt, nên các nước đều muốn có được độc lập --> Các phong trào dân tộc bùng nổ mạnh mẽ để giải phóng dân tộc, thoát khỏi ách đô hộ

lê thị phương anh
10 tháng 4 2016 lúc 9:42

thanks

 

lê thị phương anh
Xem chi tiết
Nguyên Puni
25 tháng 4 2017 lúc 15:58

Xu hướng mới là chủ tư sản noi gương Nhật

Đầu thế kỉ XX các nhà yêu nước sang Nhật học tập

Đứng đầu phong trào là Phan Bội Châu

Mục đích thành lập 1 nước VN độc lập

Lực lượng gồm các chiến sĩ yêu nước

Nguyên Puni
25 tháng 4 2017 lúc 16:03

Cuối thế kỉ XIX đất nươc nguy khốn, các sĩ phu đề ra các cải cách để chống xâm lược đời sống cực khổ khiến nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra