- Đến giữa thế kỉ XIX, sau hơn 200 năm thống trị, chế độ Mạc phủ Tô-ku-ga-oa ở Nhật Bản, đứng đầu là Sôgun (Tướng quân), đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Đây là thời kì trong lòng xã hội phong kiế Nhật Bản chứa đựng nhiều mâu thuẫn ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
- Về kinh tế, nền nông nhiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Địa chủ bóc lột nông dân rất nặng nề. Mức tô trung bình chiếm tới 50% số thu hoa lợi. Tình trạng mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra. Trong khi đó, ở các thành thị, hải cảng, kinh tế hàng hóa phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. Những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng.
- Về xã hội, Chính phủ Sôgun vẫn giữ duy trì chế độ đẳng cấp. Tầng lớp Đaimyo là những quý tộc phong kiến lớn, quản lí các vùng lãnh địa trong nước, có quyền lực tuyệt đối trong lãnh địa của họ. Tầng lớp Samurai (võ sĩ) thuộc giới quý tộc hạng trung và nhỏ, không có ruộng đất, chỉ phục vụ các đaimyo bằng việc huấn luyện và chỉ huy các đội vũ trang để hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh, địa vị của Samurai bị suy thoái, lương bổng thất thường, đời sống khó khăn, nhiều người rời khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công…dần dần tư sản hóa, trở thành lực lượng đấu tranh chống chế độ phong kiến lỗi thời.
- Tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu có, song các nhà tư sản công thương lại không có quyền lực về chính trị. Nông dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không chỉ bị phong kiến khống chế mà còn bị các nhà buôn và những người cho vay lãi bóc lột.
- Về chính trị, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến. Thiên hoàng có vị trí tối cao, nhưng quyền hành thực tế thuộc về Sô gun dòng họ Tô-ku-ga-oa ở phủ Chúa (Mạc phủ).
- Giữa lúc mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, chế độ Mạc phủ khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước tư bản phương Tây, trước tiên là Mĩ, dùng áp lực quân sự đòi Nhật bản phải “mở cửa”.
- Năm 1854, Mạc phủ buộc phải kí với Mĩ hiệp ước, theo đó, Nhật Bản mở 2 cửa biển Si-mô-đa và Ha-kô-đa-tê cho người Mĩ ra vào buôn bán. Các nước Anh, Pháp, Nga, Đức thấy vậy cũng đua nhau ép Nhật Bản kí những hiệp ước bất bình đẳng với những điều kiện nặng nề.
- Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục duy trì chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ để bị các nước đế quốc xâu xé hoặc tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư bản phương Tây.
Ngắn gọn
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, hầu hết các nước ở châu Á đều trở thành thuộc địa của thực dân phương Tây... |
Đến giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Nhật Bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng (kinh tế, xã hội)... |
Các nước đế quốc (Mĩ) đe dọa xâm lược Nhật Bản => Nhật đứng trước sự lựa chọn:tiếp tục chế độ phong kiến hoặc cải cách kinh tế... |
Đầu năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị lên ngôi và tiến hành cải cách về các mặt (chính trị, kinh tế, giáo dục, quân sự...) đưa đất nước thoát khỏi sự xâm lược từ bên ngoài... |
Cuộc cải cách Minh Trị đã mở đường cho CNTB phát triển ở Nhật, đưa Nhật trở thành nước tư bản hùng mạnh và đẩy mạnh chính sách xâm lược, bành trướng: chiến tranh Nga – Nhật... |
Hoàn cảnh châu Á: Giữa thế kỉ XIX, hầu hết các nước châu Á đều bị các nước tư bản phương Tây xâm chiếm. Ấn Độ, Miến Điện, Mã Lai thuộc Anh, Phi-líp-pin thuộc Mỹ, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia thuộc Pháp.
Hoàn cảnh Nhật Bản: Chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, bế tắc, không đủ sức chống lại sự xâm nhập của các nước phương Tây và phải kí với phương Tây các hiệp ước bất bình đẳng. Gây nên sự bất mãn trong nhân dân, phong trào đấu tranh chống Shogun diễn ra quyết liệt vào những năm 60 của thế kỉ XIX, dẫn tới sự sụp đổ của chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản. Tháng 01/ 1868, Thiên hoàng Minh Trị lên ngôi đã tiến hành các cải cách tiến bộ.
Nội dung cải cách:
Về chính trị: Nhật Hoàng tuyên bố xóa bỏ chế độ Mạc phủ, thành lập chính phủ mới, xóa bỏ tình trạng cát cứ, đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia thống nhất thuộc sự chỉ huy của chính phủ trung ương, tổ chức chính phủ gồm 12 bộ như kiểu châu Âu. Năm 1889, Hiến pháp mới được ban hành, thiết lập chế độ quân chủ lập hiến.
Về kinh tế: thi hành chính sách thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, xóa bỏ sự độc quyền ruộng đất của phong kiến, cho phép tự do buôn bán ruộng đất, tăng cường phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống...
Về văn hóa - giáo dục: coi giáo dục là nhân tố chìa khóa của phát triển, thi hành chính sách giáo dục bắt buộc, đưa nội dung khoa học - kĩ thuật vào chương trình giảng dạy, cử các thành niên ưu tú ra nước ngoài du học với khẩu hiệu '' khoa học phương Tây, đạo đức phương Đông ".
Về quân sự: hiện đại hóa quân đội theo kiểu phương Tây, ( 1873 ) thực thi chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh, công nghiệp đóng tàu, sản xuất vũ khí, đạn dược được chú trọng phát triển, mời các chuyên gia quân sự nước ngoài về...
Sau hơn 20 năm Minh Trị duy tân ( 1868 - 1895 ), Nhật Bản có những bước phát triển nhảy vọt, Minh Trị duy tân mở đường cho Nhật Bản tiến lên con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, lịch sử Nhật Bản gọi đây là thời kì '' cuộc cách mạng công nhiệp lần thứ nhất '' của Nhật Bản.