- Vào bài: Tế Hanh là nhà thơ có mặt trong phong trào Thơ Mới chặng cuối. Thơ Tế Hanh là một hồn thơ lãng mạn. Tế Hanh được biết đến nhiều nhất như một nhà thơ của quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương. Cái làng chài ven biển có dòng sông bao quanh, nơi Tế Hanh được sinh ra, luôn đau đáu trong nỗi nhớ thương của Tế Hanh, gợi những nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ông, giúp ông viết nên những vần thơ hay nhất, đẹp nhất. Quê hương là một trong những vần thơ như vậy.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Tế Hanh sinh năm 1921, quê Quảng Ngãi.
- Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương.
- Bài thơ Quê hương được in trong tập Hoa niên 1945.
2. Đọc văn bản và tìm hiểu bố cục bài thơ
* Bài thơ thuộc thể thơ tự do, câu 8 chữ.
* Đọc với giọng vui, khoẻ; khổ cuối đọc với giọng trầm lắng, da diết hơn.
* Bố cục: 8 câu đầu giới thiệu chung về "làng tôi" và cảnh dân chài ra khơi; 8 câu tiếp theo là cảnh thuyền cá về bến; khổ cuối bộc lộ tình cảm của tác giả đối với quê hương.
II. Phân tích
1. Tám câu thơ đầu: Cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá.
- Đoàn thuyền ra khơi trong một buổi bình minh đẹp, khoáng đạt: bầu trời cao rộng, trong trẻo được điểm bởi những tia nắng hồng rực rỡ. Chỉ một câu thơ: Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, tác giả đã vẽ được một không gian rộng lớn, vô tận.
- Nổi bật giữa không gian êm ả ấy, đoàn thuyền băng mình ra khơi với khí thế dũng mãnh của một con tuấn mã. Hình ảnh so sánh và một loạt các động từ mạnh đã làm toát lên sức sống mạnh mẽ và vẻ đẹp hùng tráng, bất ngờ của những con người lao động.
- Hình ảnh cánh buồm căng gió vốn mang một vẻ đẹp lãng mạn, có thể quan sát được, bất ngờ được so sánh với hồn làng là những gì lớn lao, thiêng liêng, phi vật thể. Sự so sánh này không làm cho cánh buồm được miêu tả cụ thể hơn nhưng nó đã gợi nên một vẻ đẹp mới, lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng, vừa hùng tráng. Biểu hiện linh hồn làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng no gió biển khơi là một sáng tạo độc đáo của Tế Hanh.
- Với âm điệu mạnh mẽ, sôi nổi, bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, tám câu thơ đầu vừa vẽ ra một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, vừa khắc hoạ đậm nét bức tranh lao động khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân nơi biển cả.
2. Tám câu thơ tiếp theo: Cảnh thuyền cá về bến.
- Cảnh dân chài đón thuyền cá về bến cũng là một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống.
- Bốn câu thơ miêu tả người dân chài và con thuyền nằm nghỉ trên bến sau chuyến ra khơi là những câu thơ đặc sắc nhất, tinh tế nhất của bài Quê hương. Hình ảnh người dân chài vừa nổi bật với vẻ đẹp ngoại hình rắn rỏi, vạm vỡ: "làn ra ngăm rám nắng", vừa gợi mở vẻ đẹp của một tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, mặn mà - vẻ đẹp của biển cả. Đó là một vẻ đẹp vừa chân thực vừa lãng mạn. Hai câu thơ vừa tả thực vừa gợi cho người đọc những liên tưởng sâu xa, thú vị.
- Hai câu thơ tả chiếc thuyền nghỉ ngơi trên bến cũng là một sáng tạo độc đáo của Tế Hanh. Tác giả không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận thấy "sự mệt mỏi say sưa" của con thuyền. Con thuyền vô tri đã trở thành một tâm hồn tinh tế không kém chủ nhân của nó. Sau bao ngày tháng lênh đênh, miệt mài trên biển, giờ đây, nó đang nằm và lắng nghe chất muối mặn mòi của biển thấm dần vào từng thớ vỏ, như một người lao động đang nằm và ngẫm nghĩ lại cả chặng đường vất vả, những giọt mồ hôi mà mình đã đổ xuống để có được thành quả lao động như ngày hôm nay.
- Trong cách miêu tả của Tế Hanh, ta thấy có sự gắn bó làm một giữa thiên nhiên cuộc sống với tâm hồn con người nơi đây. Và dù tác giả không biểu lộ trực tiếp tình cảm của mình nhưng trong cách miêu tả của ông, người đọc cảm nhận được sợi dây tình cảm thiêng liêng sâu nặng nối liền tâm hồn ông với thiên nhiên, cuộc sống và con người nơi đây. Không phải là một người con yêu dấu của quê hương, không yêu quê hương bằng tình yêu máu thịt và không có sự tinh tế tài hoa của một nhà nghệ sĩ thì không thể viết được những câu thơ sâu xa, xúc động như vậy.
3. Khổ thơ cuối: Tình cảm nhớ thương quê hương của tác giả.
- Quê hương được viết trong xa cách, trong niềm thương nhớ khôn nguôi của tác giả. Nỗi nhớ được nói lên một cách giản dị, tự nhiên, chân thành mà sâu sắc. Tế Hanh nhớ tất cả, từ màu nước xanh, cá bạc, cánh buồm vôi... rồi cuối cùng hội tụ lại ở cái mùi nồng mặn. Cái mùi nồng mặn, trong tâm tưởng nhà thơ, chính là hồn thơm, hồn thiêng của quê hương. Những tưởng không có cách nào diễn tả tình yêu và nỗi nhớ quê giản dị mà sâu sắc, xúc động hơn nữa vậy.
4. Vài nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.
- Tuy phần lớn số câu thơ là câu miêu tả, song toàn bộ hình ảnh miêu tả đó đều nằm trong dòng tưởng nhớ, trong tình yêu quê hương da diết của chủ thể trữ tình. Vì vậy, miêu tả chỉ là một yếu tố phục vụ cho biểu cảm. Hơn nữa, tình cảm của một người con xa quê, nhớ quê luôn đầy ắp sau mỗi câu chữ, hình ảnh; thổi linh hồn vào từng câu chữ, hình ảnh làm cho bức tranh quê hương mang một vẻ đẹp lớn lao, bất ngờ và đầy lãng mạn.
- Nét nghệ thuật đặc sắc nhất của bài thơ Quê hương là ở sự sáng tạo hình ảnh thơ. Bài thơ khá phong phú hình ảnh. Các hình ảnh ở đây vừa chân xác, cụ thể, vừa độc đáo, bay bổng, lãng mạn, có khả năng gợi ra những trường liên tưởng phong phú ở người đọc.
III. Tổng kết
- Nội dung: Quê hương đã khắc hoạ được bức tranh tươi sáng, khoẻ khoắn, đầy sức sống về cuộc sống lao động của một làng quê miền biển, qua đó thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, đằm thắm của tác giả.
- Nghệ thuật: Bài thơ bình dị, giọng thơ mộc mạc, chân thành, hình ảnh thơ giàu tính sáng tạo và gợi cảm.
1. Sau hai câu thơ mở đầu rất bình dị, tự nhiên, tác giả giới thiệu chung về làng quê của mình,nội dung hầu như chi có ý nghĩa thông tin, tiếp đến 6 câu miôu tả cánh “trai trảng bơi thuyền đi đánh ca’ một buối “sớm mai hồng” rộng rãi, khoáng đạt.
Đó là những câu thơ đẹp, đã mớ ra cảnh tượng bầu trời cao rộng, trong tréo, nhuốm nắng hồng bình minh: trên đó, nổi bật lên hình ảnh đoàn thuyền băng mình ra khơi:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dán trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Hình ảnh so sánh (con tuấn mã) và một loạt từ ngữ: hăng, phăng. vượt... diễn tả đầy ấn tượng- khí thế băng tới dùng mãnh cua con thuyền ra khơi, toát lên một sức sống mạnh mè, một vẻ đẹp hùng tráng bất ngờ. Bốn câu thơ vừa là phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dào đạt sức sống cùa ngưởi làng chài chinh phục sông nước.
Hai câu tiếp theo miêu tả cánh buồm thuyền chài càng rất đẹp, một vẻ đẹp đầy lãng mạn với sự so sánh độc đáo bất ngờ:
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trớ nên lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Tế Hanh như nhận ra đó chính là biểu tượng của linh hồn làng chài. Nhà thơ vừa vẽ ra chính xác cái hình, vừa cảm nhận được cái hồn của sự vật. Sự so sánh ớ đây không chỉ làm cho việc miêu ta được cụ thế hơn mà đã gợi ra một vẻ đọp bay bông, mang ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ánh nào diễn ta được chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn để biểu hiện linh hồn làng chài bang hình ánh cánh buồm trắng trương lo no gió biển khơi bao la đó?
Khổ 3 là cảnh dân làng chài đón thuyền cá trò' về, một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy áp niềm vui và sự sống: toát ra từ không khí ồn ào, tấp nập đông vui, từ những chiếc ghe đầy cá, từ những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật thích mắt, cả từ lời cám tạ chân thành đất trời đà sóng yên “biển ìặng” che chở người đi chài trỏ' về an toàn vói “cú dầy ghe”...
Khố thơ sau rất đặc sắc, miêu tả người dân chài và con thuyền nằm nghi trên bến sau chuyến ra khơi. Câu đầu (Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng) là tả thực, câu sau là sáng tạo độc đáo, gợi tá, rất thú vị: Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Thể hiện người lao động làng chài, nhưng đứa con của biển khơi, có nhừng nét: nước da ngăm nhuộm nắng nhuộm gió, thân hình vạm vỡ và thấm đượm vị mặn mòi, nồng tỏa "vị xa xăm” của biển khơi. Hình ảnh người dân chài vừa chân thực vừa làng mạn và trở nên có tầm vóc.
Hai câu tiếp theo miêu tả chiếc thuyền nằm im trên bến sau khi vại lộn với sóng gió trờ về cùng là sáng tạo nghệ thuật (lộc đáo như vây Tác giá không chi thấy con thuyền đang nam im trên bến mà còn “thấy” sự một mói say sưa (lời Hoài Thanh) của con thuvền. Tac gi.ì còn cám thây con thuyền ây như đang lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ của nó. Con thuyền vô tri đã trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế. Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muối mặn của biển khơi. Không có một tâm hồn tinh tê, tài hoa va nhất là nếu không có tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người cùng cuộc sống lao động làng chài quê hương thì không thể có những câu thơ xuất thần như vậy.
2. Trong bài thơ, tác giả đã khắc họa được hình ảnh quê hương mình và người dàn làng chài rất gợi cảm thông qua thủ pháp so sánh độc đáo. Ví như:
- Cánh buồ/ii giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
- Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Cánh buồm trắng khi no gió phồng căng lên đầy gợi cảm. Vóc dáng cường tráng, khoáng đạt của cánh buồm chính là hơi thở của con thuyền, là linh hồn của những người điều khiển nó, là biểu tượng của hồn làng chài. Ờ đây nhà thơ đã so sánh hình ảnh -cánh buồm, vật cụ thể hữu hình với mảnh hồn làng, cái trừu tượng vô hình. Vì vậy, nét tinh thần riêng của làng chài dược hình tượng hóa bằng một hình ảnh cụ thế mà bay bổng và giàu ý nghĩa lớn lao. Thể chất cường tráng, mạnh mè, tính cách hiên ngang, phóng khoáng, khát khao bay bổng và hùng tráng ớ người dân chài đã lộ rõ trong cánh buồm trắng ấy.
Hai câu sau miêu tả hình ảnh người dân chài - người lao động bình thường. Nhưng với sự sáng tạo độc đáo và gợi tả, Tế Iĩanh đã nâng cao tầm vóc của họ ờ tư thế của đứa con biển cả kiên cường dũng cám lập nên Iihừng kì công đáng khảm phục. Người dân chài ở đây được khắc tạc như một bức tượng đài có hình khắc, màu sắc và vị đặc trưng của biển cả. Đó là những con người có làn da rám nắng nhuôm gió vật lộn từng trải, thân hình chắc khỏe, nồng tỏa “vị xa xăm” của biển khơi. “Vị xa xăm” đó là gì nếu không phải vị mặn môi, nồng đậm của biển cả, hơn thế, đó còn là mùi vị, là hoi thở của đại dương, của chân trời tít tắp.
3. Để vẽ ra một bức tranh làng què miền biển khỏe khoắn, đặc biệt khắc họa chân thực và sinh động hình ảnh người dân chài cũng như sinh hoạt lao động của làng chài như vậy, rõ ràng Tế Hanh phải có một tâm hồn tinh tế và tài hoa, một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, một nỗi nhớ thương da diết, nồng hậu về vùng quê sông nước bao la đó.
4. - Quê hương là bài thơ trữ tình, nhưng 4/5 số khổ thơ lại chủ yếu là phương thức miêu tả. Ngay trong 4 câu khố kết, phương thức biếu đạt chủ yếu là biểu cảm, nhưng hai câu giữa cũng là miêu tả. Song đây vẫn là thơ trữ tình, mà phương thức biểu đạt chủ yếu là biểu cảm, hởi lẽ toàn bộ hệ thống hình ảnh miêu tả chi là tái hiện phong cảnh, cuộc sống và người dân làng chài quê hương trong nỗi nhớ của chủ thể trư tình. Như vậy, yếu tố miêu tả ớ đây là phục vụ cho biển cả", trữ tình, dù chiếm một tỷ lệ lớn trong tác phẩm. Mặt khác, ngòi bút miêu tả của tác giả ở đây không khách quan chủ nghĩa, mà trái lại bay bổng cảm hứng, cảm xúc chú quan. Như vậy mới có nhừng so sánh đẹp, bay bống, mới me, có những chỏ sử dụng biện pháp nhân hóa một cách độc đáo, thổi linh hồn cho sự vật, khiến sự vật có một vẻ đẹp, một ý nghĩa, một tầm vóc bất ngờ.
- Có thể nói, nét đặc sắc nghệ thuật nổi bật nhất của bài thơ này là ở sự sáng tạo hình ảnh thơề Bài thơ khá phong phú hình ánh. Có nhừng hình ảnh miêu tả chân xác không tô vè, chân xác đến từng chi tiết, khiến người đọc như trông rõ mồn một cảnh được miêu tá (khố một, hai câu đầu khô 2, khố 3, hai câu giừa khố cuối): nhưng lại có nhừng hình ảnh bay bổng, đầy lãng mạn, rất có hồn như trên đã phán tích. Hoàn Thanh nhận xét rất tinh: ‘Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thân tình về cảnh sinh hoạt chốn què hương. Người nghe thấy cả những điều không hìnli sắc, không thanh ăm như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”, như tiếng hát của ìuỉơng đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ.
Ngoài ra, nhà thơ sử dụng nghệ thuật so sánh rất tinh tế, góp phần tạo ra những hình ảnh gợi cản.
Thêm nữa, ngôn từ gián dị mà giàu cảm xúc, khơi gợi được nhiều liên tưởng.
Câu 1: Câu 3 đến 8 miêu tả cảnh "trai tráng bơi thuyền đi đánh cá" một buổi "sớm mai hồng" rộng rãi, khoáng đạt.
- Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi:
"Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng ... Rướn thân trắng bao la thâu góp gió"
2 câu đầu đã mở ra cảnh tượng bầu trời cao rộng, trong trẻo, nhuốm nắng hồng bình minh.
Trên đó, nổi bật lên hình ảnh đoàn thuyền bang mình ra khơi. Hình ảnh so sánh "con tuấn mã" và một loạt từ ngữ: hăng, phăng, vượt… diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới dũng mãnh của con thuyền ra khơi, toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẻ đẹp hùng tráng bất ngờ.
Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Tế Hanh như nhận ra đó chính là biểu tượng của linh hồn làng chài.
- Cảnh đón thuyền cá về bến sau một ngày lao động:
"Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ … Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ"
Cảnh ồn ào, tấp nập trên bến đón thuyền cá trở về, một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống.
Hình ảnh người dân chài: "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng" là tả thực, câu sau là sáng tạo độc đáo, gợi tả, rất thú vị: "Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Hình ảnh người dân chài vừa chân thực vừa lãng mạn và trở nên có tầm vóc.
Hình ảnh con thuyền: nằm im trên bến sau khi vật lộn với sóng gió trở về. Tác giả không chỉ thấy con thuyền đang nằm im trên bến mà còn "thấy" sự mệt mỏi say sưa của con thuyền. Tác giả còn cảm thấy con thuyền ấy như đang lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ của nó.
Câu 2: Phân tích một số câu thơ sử dụng biện pháp so sánh và ẩn dụ:
Cánh buồm gương to như mảnh hồn làng Rướm thân trắng bao la thâu góp gió…
Cánh buồm vô tri đã được người thi sĩ thổi vào một tâm hồn. Đó chính là cái hồn thiêng liêng (trong tâm khảm nhà thơ) của ngôi làng ấy. Nhà thơ đã lấy cái đặc trưng nhất (những cánh buồm) để mà gợi ra bao ước mơ khao khát về một cuốc sống no ấm, đủ đầy. Câu thơ sau thấm chí còn "có hồn" hơn. Thuyền không phải tự ra khơi mà đang "rướn" mình ra biển cả. Hình ảnh thơ đẹp và thi vị biết bao.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.
Hai câu thơ là một bức tranh vẽ phác về hình ảnh dân chài. Đó là những con người dường như được sinh ra từ biển. Cuộc sống biển khơi dãi dầu mưa nắng làm cho làn da "ngăm rám" lại, trong cả "hơi thở" của thân hình cũng là hương vị xa xăm của biển. Hai câu thơ không phải chỉ là sự miêu tả đơn thuần mà nó là sự cảm nhận bằng cả một tâm hồn sâu sắc với quê hương.
Câu 3:
Để vẽ ra một bức tranh làng quê miền biển khỏe khoắn, đặc biệt khắc họa chân thực và sinh động hình ảnh người dân chài cũng như sinh hoạt lao động của làng chài như vậy, rõ ràng Tế Hanh phải có một tâm hồn tinh tế và tài hoa, một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, một nỗi nhớ thương da diết, nồng hậu về vùng quê sông nước bao la đó.
Câu 4:
Nét đắc sắc nghệ thuật nổi bật nhất của bài thơ này là sự sáng tạo các hình ảnh thơ. Bài thơ cho thấy một sự quan sát tinh tế, một sự cảm nhận và miêu tả sắc sảo. Hình ảnh thơ phong phú, vừa chân thực lại vừa bay bổng và lãng mạn khiến cho cả bài thơ rất có hồn và tràn đầy thi vị.
Bài thơ sử dụng kết hợp phương thức miêu tả và biểu cảm. Nhưng yếu tố miêu tả chủ yếu nhằm phụ vụ cho biểu cảm, trữ tình. Nhờ sự kết hợp này mà hình ảnh thơ vừa lột tả được chân thực, tinh tế cảnh vật và con người của cuộc sống miền biển vừa thể hiện sâu sắc những rung động của tâm hồn nhà thơ