Từ xưa đến nay, thiên nhiên luôn là người bạn thân thiết gắn bó với con người và là nguồn cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhà thơ không chỉ yêu thích ngắm nhìn vẻ đẹp phong phú, bí ẩn của thiên nhiên mà còn gởi gắm trong đó những tâm tư thầm kín, những chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ sống, về cuộc đời. Chúng ta có thể bắt gặp điều này qua hai bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh và Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.
Thân bài:Thiên nhiên chính là môi trường sống bao quanh chúng ta như trời xanh, mây trắng, gió mát, trăng thanh, rồi hoa thơm cỏ lạ, núi thẳm non xanh, …. Thiên nhiên ấy thật bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp và hùng vĩ vô cùng. Và thiên nhiên ấy khi đi vào thơ qua cách cảm nhận tinh tế của người nghệ sĩ nó lại đẹp hơn gấp trăm ngàn lần.
Với thi nhân, thiên nhiên là bầu bạn thâm tình. Thiên nhiên gợi lên thi hứng và tình yêu cuộc sống ở con người. Thi ca cũng lấy chất liệu từ thiên nhiên để làm nhân tố cho sự biểu đạt của nó. Trong quá trình tìm kiếm sự hòa hợp, con người phương Đông luôn học cách sống hài hòa với thiên nhiên, thấy mình là một phần không thể thiếu của tự nhiên thanh sạch và thuần khiết ấy.
Đọc Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải chúng ta sẽ có dịp đắm mình trong bức tranh mùa xuân êm đềm, nên thơ, dịu mát của vùng đất cố đô Huế, nơi ông đã sinh ra và lớn lên:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Thiên nhiên hiện ra đầu tiên với hình ảnh dòng sông xanh biếc. Dòng sông chính là cội nguồn bồi đắp phù sa và sự sống cho vạn vật. Dòng sông còn là tượng trưng của dòng sống, dòng đời chậm trôi. Trên cái dòng sông ấy mọc lên một bông hoa tím biếc. Có lẽ không chỉ là một. Nhà thơ đã làm mờ đi tát cả, chỉ giữ lại một bông hoa để cảm nhận sự đơn độc, lẻ loi và sự héo tàn sắp xảy ra không có gì để thay thế. Bông hoa tím vừa đẹp lại vừa buồn. Đẹp vì sắc tím là màu sắc gợi cảm, gợi tình, khơi động nhớ thương. Buồn là vì qua hình ảnh một bông hoa tím, ta cảm nhận được sự mong manh, hạn hữu của đời người. Càng nhìn ngắm càng thấy cô đơn.
Vượt ra khỏi mặt đất, nhà thơ tìm đến bầu trời cao với tiếng chim chiền chiện ca vang. Tiếng chim líu lo, trầm bổng, đôi khi chói gắt. Tiếng gọi “ơi con chim” vừa trìu mến thân thương vừa giận hờn, trách móc. Thương là bởi tiếng chim say mê, yêu bầu trời, yêu cuộc đời đắm say. Giận là bởi nó phá tan cái yên bình của cảnh vật, nó làm con người lay động không thể đằm thắm lại được. Tiếng chim tràn trề sinh lực của cuộc sống hoàn toàn trái ngược với sự sống đang dần vơi cạn ở con người.
Thế nên, nhà thơ vội đưa tay hứng lấy nguồn sinh lực của đất rời dang ào ạt đổ xuống để mong bồi đắp thêm cho sự sống của mình. Hành động vội vã, háo hức. Lấy sức mạnh của thiên nhiên để làm giàu thêm cuộc sống của chính mình. Hòa mình trong cuộc sống lớn để tìm kiếm sự tương trợ của vũ trụ vĩnh hằng.
Đọc đoạn thơ, ta thấy Thanh Hải có một tâm hồn đối với thiên nhiên rất sâu nặng. Ở đó không chỉ có vẻ đẹp của cảnh vật mà còn thấy một tấm lòng tha thiết với cảnh vật. Đó là tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên vô tận, với vẻ đẹp tráng mĩ và sự đồng cảm trước tiếng chim ca, bông hoa nở.
Đến với Sang thu, chúng ta ngỡ ngàng nhận ra bức tranh mùa thu êm đềm nên thơ, dịu mát, không ồn ào, náo động mà trầm lắng, suy tư. Thiên nhiên cảnh vật trong khoảnh khắc giao mùa hết sức nhẹ nhàng và tinh tế. Chứa đựng trong đó là biết bao nỗi luyến lưu bịn rịn, ngập ngừng do dự của một con người. Thi nhân như muốn cưỡng lại thời gian, muốn níu giữ chút gì đó những năm tháng tuổi trẻ của đời mình. Bài thơ không chỉ đơn thuần là tả cảnh mà còn nói lên những suy nghĩ chiêm nghiệm sâu sắc của con người về lẽ sống, cuộc đời.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Bước đi của thời gian khiến lòng ta bồi hồi, xao xuyến. Xao xuyến không chỉ vì cái đẹp nên thơ, thanh sạch, tươi mát của thiên nhiên cảnh vật khi xuân đến thu sang mà còn là sự xao xuyến bởi khát vọng hòa nhập, gắn kết mình với thiên nhiên ấy.
Những dấu hiệu đầu tiên của khoảnh khắc cuối hạ đầu thu hiện ra vừa mơ hồ vừa hết sức rõ ràng. Hương ổi nồng được, làn sương nhẹ trôi, gió mùa sư lạnh vừa như thực vừa như không thực. Thi nhân đã cảm nhận thấy nhưng chưa dám khẳng định bởi sợ nhầm lẫn với biểu hiện của buổi sớm mai thường thấy. Thế nên, ông mới tìm đến với không gian rộng lớn hơn để kiểm chứng và khẳng định điều ấy:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Hình ảnh dòng sông, cánh chim, mây trời tiếp tục xuất hiện trong bài thơ để biểu hiện cho cái đẹp của thiên nhiên. Nếu ở Mùa xuân nho nhỏ là dòng sông xanh và tiếng chin ca vang thì ở Sang thu là dòng sông chảy và cánh chim vội vã. Sự vận động của thiên nhiên lại hiện hữu ở những sự vật khác biệt. Nó chưa hẳn đã đẹp như lại rất đẹp khi được ngắm nhìn bởi một tâm hồn đẹp. Cái đẹp trong đoạn thơ dồn nén lại ở hình ảnh đam mây trời đầy xung đột:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Rõ ràng, giưa mùa hạ và mùa thu làm gì có ranh giới. Thế mà, bằng hình ảnh đám mây, thi nhân gợi cho ta thấy được cái ranh giới ấy với những xung đột kịch liệt. Đám mây một nửa chói sáng, sôi động như đang còn ở mùa hạ. Còn nửa kia đã vắt sang thu với vẻ u mờ, trầm lắng. Sự xung đột ây không chỉ ở đám mây trời mà còn diễn ra trong khắp đất trời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Cái nắng chói gắt và rộn ràng của mùa hạ hãy còn nhiều lắm. Những cơn mưa giông dữ dội của mùa hạ đã dần vơi, nhường chỗ cho sự yên tịnh và bình tâm của mùa thu. Tiếng sấm cũng không còn rầm rã trên bầu trời. Hàng cây tư lự đứng nhìn đất trời chuyển động. Vũ trụ dần đi vào tĩnh mịch vốn có mùa mùa thu.
Đối với thi nhân, thiên nhiên là tri kỉ, là tình nhân. Vũ trụ là gia đình, là nơi nương náu tâm hồn. Bởi thế, họ luôn biết nâng niu vẻ đẹp giao hòa giản dị của thiên nhiên bình dị, đều xúc động trước những sự việc rất tầm thường của vạn vật cỏ cây. Thi nhân âm thầm quan sát thiên nhiên và bằng tâm hồn rỗng ràng sẵn sàng hòa điệu cùng vũ trụ, cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên. Và đôi khi, sự tương thông của lòng người với nhau không phải qua lời nói bề ngoài ồn ào mà sự tương giao ấy biểu hiện qua cái tĩnh lặng say mê với cảnh vật.
Chính cái không lời vĩnh viễn ấy mới thấu biết được mọi lẽ trong cõi hiện sinh đầy mệt nhọc này. Bởi vậy, tràn lấp trong các dòng thơ là vẻ đẹp của hoa cỏ, núi sông, là thanh âm của sự sống. Ta cũng thấy được cái cảm giác an nhiên, viên mãn giữa tự nhiên khoáng đạt và rộng lớn. Và ẩn sâu trong đó là khát vọng trường tồn cùng thiên nhiên, vũ trụ ấy.
Kết bài:
Với cách biểu đạt nhẹ nhàng, tinh tế hai bài thơ đã thể hiện cái đẹp nồng thắn, mê say của cảnh sắc thiện nhiên đất trời. Ở đó, thiên nhiên vừa tươi đẹp, tràn trào sức sống vừa chứa đựng tâm tư, suy nghiệm của con người về cuộc đời , về lẽ sống. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng luôn tìm kiếm một tiếng nói chung với thiên nhiên để tìm kiếm một sự hợp nhất viên mãn nhất. Đó là niềm vui, là hạnh phúc, là lối sống đẹp mà con người luôn hướng tới.
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hai đoạn trích thơ:
+ Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ từ xưa đến nay bởi vẻ đẹp gợi cảm và vĩnh hằng của nó.
+ Hình ảnh thiên nhiên luôn được gợi lên với những bức tranh tuyệt đẹp qua biết bao tác phẩm sống mãi với thời gian.
+ Mỗi lần đọc “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và “Sang Thu” của Hữu Thỉnh, chúng ta lại bắt gặp những sung cảm tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống.
Đặc biệt 2 khổ thơ đầu của bài thơ đã khơi gợi cho người đọc những cảm xúc bâng khuâng sao xuyến của thiên nhiên ở 2 mùa xuân thu.
II. Thân bài:
1. Cảm nhận về khổ thơ đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
- Một bức tranh mùa xuân khoáng đạt, tươi tắn, rộn rã âm thanh, sắc màu hiền hoà thơ mộng và cảm xúc sây sưa ngây ngất của nhà thơ.
+ Hình ảnh mùa xuân được tái hiện bằng vài nét chấm phá nhưng giàu sức gợi: Trên dòng sông xanh mênh mông, hiền hoà, thơ mộng điểm xuyết một vài bông hoa màu tím than nhẹ nhưng tràn đầy chất thơ.
+ Phân tích nghệ thuật đảo ngữ với động từ “mọc” được đưa lên đầu đoạn thơ để làm nổi bật sức sống mãnh liệt của thiên nhiên khi mùa đến.
+ Hình ảnh âm thanh của tiếng chim chiền chiện “vang trời” gợi một không gian cao rộng, thoáng đãng, rộn rã và giàu sức sống.
+ Cảm xúc của nhà thơ: say sưa, ngây ngất
2. Cảm nhận về khổ thơ đầu bài thơ “Sang thu”
- Bức tranh thiên nhiên chớm thu, tín hiệu báo mùa: cũng được phát hoạ bằng vài nét chấm phá: hương ổi, gió se và sương thu.
- Phân tích động từ “Phả” giàu sức gợi: không thể thay từ “Phả” bằng từ “hoà”, từ “quyện”.
- Nếu thay từ “hoà”, “quyện” thì chúng ta chỉ cảm nhận được mùi vị của hương ổi mà không cảm nhận được hương vị của làn gió se lạnh, động từ “Phả” vừa gợi sự gợi cảm quyến rũ của đầu mùa thu thoáng nhẹ, thoang thoảng lan toả vào làn gió, tràn vào không gian … Đồng thời động từ “Phả” còn gợi lên sự cảm nhận làn gió thu se lạnh mơn man trên da thịt, một sự chuyển mùa bằng tín hiệu đặc trưng của thiên nhiên sang thu
- Từ láy “chùng chình” đã được nhân hoá thổi hồn vào làn sương gợi từng bước chuyển động chậm chạp như còn vương vấn, lưu luyến. Làn sương “chùng chình” tạo nên 1 không gian mơ màng, thơ mộng, sương giăng giăng đầu ngõ là nét đặc trưng của vẻ đẹp đầu thu chỉ có ở những làn quê Miền Bắc.Nhưng cảnh vật vừa mới chấm thu, sương thu chưa dày đặc mà chỉ mới xuất hiện lãng đoãng, mơ hồ, chùng chình, khiến nhà thơ bất giác nhận ra thu đã về rồi chăng? Một sự phán đoán còn mơ hồ.
+ Cảm xúc và trạng thái của nhà thơ Hữu Thỉnh: Tất cả các tín hiệu của thiên nhiên vào thu trong thời khắc chuyển mùa mong manh được nhà thơ bất giác nhận ra: “Bổng” mở đầu bài thơ đã diễn tả trạng thái ấy, nhưng dù bất giác ngỡ ngàng dường như nhà thơ có sự chờ đợi sẵn để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên trong phút giây mong manh giao mùa này chăng? Chỉ có 1 hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên say đắm mới có những rung động tinh tế trước sự chuyển mùa rõ rệt đến thế.
3. So sánh thiên nhiên trong 2 đoạn thơ
- Giống nhau:
+ Thiên nhiên trong 2 đoạn thơ đều hiện lên thật gợi cảm, nên thơ cùng với những rung động tinh tế và tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.
+ Đều chọn lọc những hình ảnh tiêu biểu bằng vài nét chấm phá và dùng những từ ngữ giàu sức gợi để diển tả cái hồn của bức tranh thiên nhiên.
- Khác nhau:
+Thanh Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân lúc nằm trên giường bệnh, điều đó còn thể hiện tiếng lòng yêu tha thiết cuộc sống, yêu thiên nhiên.
III. Kết bài
- Mỗi nhà thơ đều có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên nhưng đều để lại cho người đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ.
Từ văn học trung đại cho đến văn học hiện đại, từ thơ cổ cho đến thơ mới, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa của quê hương đã trở thành những hình ảnh khó phai mờ trong các tác phẩm của nhà văn, nhà thơ. Chúng ta thấy hình ảnh quê hương hiện ra ở thơ vô cùng thân mật, gần gũi, đáng yêu và đầy quen thuộc, gợi bao cảm xúc đẹp đẽ của con người…
Quê hương chúng ta vốn có vẻ đẹp dân dã, bình dị của sự sống mơn mởn. Quê hương cao cả và thiêng liêng, thân thuộc và bình dị, chúng ta có thể bắt gặp trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ“ của Thanh Hải hay “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Viết về quê hương, đất nước thì mỗi nhà thơ lại có một cảm nhận riêng. Nếu hình ảnh đất nước trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được soi chiếu qua lăng kính mùa xuân thì “Sang thu” của Hữu Thỉnh – quê hương, đất nước lại được soi chiếu qua bức tranh giao mùa cuối hạ sang thu… Thật phong phú, đa dạng mà không kém phần thú vị.
Thanh Hải viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” khi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh không lâu, bản thân nhà thơ cũng ở tình trạng sức khỏe hiểm nghèo, nhưng cả cuộc đời gắn bó với quê hương xứ sở làm sao không có những cảm xúc lúc đi xa. Hình ảnh quê hương, đất nước hiện lên qua cảnh sắc mùa xuân – thiên nhiên xứ Huế tinh khôi, trong trẻo, đầy sức sống. Mùa xuân của thiên nhiên cũng là mùa xuân của đất nước con người:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hoá đất trời. Sau những ngày đông lạnh lẽo, thiên nhiên lại được khoác một tấm áo tươi non, ấm áp của mùa xuân. Mùa xuân đến, báo hiệu bằng những cảnh sắc thiên nhiên quen thuộc : dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và chim chiền chiện. Mùa xuân đã hiện diện trên toàn cảnh, trên tạo vật : đất trời, hoa lá, chim muông…. Tô điểm sắc màu cho không gian ấy, có màu xanh cây cỏ, xanh của dòng sông, màu tím của hoa và cả màu của mây trời:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Cảnh sắc thiên nhiên ấy không chỉ đẹp mà còn sinh động. Từ “mọc” đặt ở đầu câu thơ vang lên như một điểm nhấn, một sự phát hiện đầy cảm xúc của nhà thơ. Hai câu thơ đầu vẽ nên một không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông xanh trong chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung. Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay hoa súng mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê mà ta từng gặp trong những vần thơ của khác:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…”
(Lê Anh Xụân)
Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương- vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự. Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động. Bức tranh xuân còn được điểm xuyết thêm bằng âm thanh rộn rã, tưng bừng của con chim chiền chiện hót vang trời. Tiếng hót của chim, đường nét uốn lượn quanh co của con sông, màu tím biếc của bông hoa vẽ nên một bức tranh mùa xuân đầy sức sống mãnh liệt trên quê hương tác giả.
Trước vẻ đẹp ấy, nhà thơ ngất ngây sung sướng không ngăn được dòng cảm xúc. Những từ cảm thán “Ơi”, “Hót chi” vang lên là tiếng lòng nao nức say sưa của nhà thơ khi lần đầu tiên phát hiện vẻ đẹp đơn sơ mà say đắm của cảnh vật quê hương.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch liên tưởng của bài thơ “giọt long lanh” còn là giọt âm thanh đổ hồi của con chim chiền chiện… Hình ảnh có tính chất tượng trưng “tôi đưa tay tôi hứng” là thái độ yêu thương, trân trọng của nhà thơ trước vả đẹp của đất trời. Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.
Tạm rời xa mùa xuân của Thanh Hải ta tìm đến với cái tình non sông đất nước được khơi nguồn từ cảnh sắc thiên nhiên trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Thi sĩ bộc bạch tình yêu đất nước ở nhiều cung bậc. Hữu Thỉnh với cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét đã vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu”. Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị. Hình ảnh đất nước quê hương còn được nhà thơ phác họa qua phút gia thừa cuối hạ sang thu thật tinh tế và sâu sắc. Bắt đầu từ một khu vườn ngoại ô của vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,
Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ.Hương vị đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Vì sao tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi” mà không phải là các hương vị khác? Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.
Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”? Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam … Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc gập ngềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “được lúc" diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt. Đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế. Nhưng cơn gió heo may lãnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng đối lập với vội vã) đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý: cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời.
Không gian đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới. Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị , đặc biệt là hình ảnh:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo đến thế. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt ” mang hiệu quả diễn đạt rất lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giữa hai mùa thiên nhiên hay nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu của mùa thu.
Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà.
Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên, những chiêm nghiệm, những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người trong cuộc sống nhưng thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ đầy xúc động với hình ảnh thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Hai bài thơ để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ và vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm khát khao được sống, được cống hiến cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.