Văn mẫu lớp 9

Trần Thị Ánh Nguyệt

Niềm tâm sự thầm kín của Nguyễn Duy qua bài thơ ánh trăng

Giúp mk vs

Son Hak
6 tháng 1 2019 lúc 20:38

Burke từng nói: “Không bao giờ có thể hoạch định cho tương lai bằng quá khứ”; quả không sai. Người Việt Nam xưa vẫn có câu:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng”

Đó là truyền thống được nhắc đến trong các tác phẩm văn học từ bao đời nay và “Ánh trăng” cũng là tâm sự thầm kín của Nguyễn Duy nằm trong mạch cảm xúc ấy. Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chime nghiệm về một lối sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời mỗi con người.

Bài thơ “Ánh trăng” ra đời vào năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc được ba năm. Trong suốt ba năm ấy không phải ai cũng còn nhớ những nghĩa tình trong quá khứ. Tác giả Nguyễn Duy viết bài thơ này như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình và với mọi người về lẽ sống nghĩa tình thủy chung:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

Khổ thơ đầu mở ra như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ. Bằng sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ, người đọc như thấy thấp thoáng đâu đây bóng dáng một cậu bé hồn nhiên gắn liền với những người bạn khổng lồ: “đồng”; “bể”; “sông”; “rừng” trong quá khứ. Tuổi thơ chúng ta mấy ai có được những người bạn tri âm, những khoảnh khắc giao hòa diệu vợi với thiên nhiên thôn quê như thế? Thuở bé, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã có lần được “chơi” với trăng, được tắm mình trong thế giới thiên nhiên bao la nơi chính sân nhà mình:
Ông trăng tròn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em

Tuổi thơ tác giả được nô đùa với ánh trăng, với thiên nhiên, chan hòa đến mức “trần trụi” không còn khoảng cách:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ

Đó là tình cảm gắn chặt keo sơn, để rồi đến khi tham gia kháng chiến, vầng trăng trở thành tri kỉ của người lính:
Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

Ánh trăng từ giã “đồng”; “bể”; “sông”; “rừng” để cùng người lính vào chiến trường, làm một người bạn tinh thần trong kháng chiến. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành “đôi bạn tri kỉ”. Ta bắt gặp những giây phút ấm nồng của sự gắn chặt keo sơn ấy trong thơ người lính lái xe Phạm Tiến Duật:
Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi đợi nhớ lưng đèo

hay giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới với tư thế bồng súng:
đầu súng trăng treo
(Đồng chí_Chính Hữu)

và ngay cả trong thơ Hồ Chí Minh, vầng trăng đã trở nên quá đỗi quen thuộc với người lính:
“Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm”

Trăng đã chia ngọt sẻ bùi suốt chặng đường hành quân, suốt những thời khắc nhuốm màu rực lửa bom đạn, trăng cùng người lính đánh phá, chống trả mưa bom quân thù:
Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa mọc lên cao
(Phạm Tiến Duật)

…Trong giây phút khăng khít ấy, người lính đã tự hứa với bản thân mình
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Vậy mà cuối cùng, cái “lời hứa” ấy đành chôn vùi vào quên lãng với dòng chảy bộn bề của thời gian. Lời hứa năm xưa nay chỉ được nhớ lại bằng từng chữ “hồi” như một điệp khúc. “Hồi” – chỉ là “hồi ấy” thôi, còn bây giờ, nghĩa tình năm xưa bị vứt bỏ. Chữ “hồi” như một điểm dừng chân giữa ranh giới ngày ấy và hôm nay để bây giờ đưa người đọc lần về quá khứ. Lời thơ mỗi lúc một nhẹ nhàng, như lời thủ thỉ tâm tình kéo độc giả cuốn vào mẩu chuyện nhỏ. Điều “ngỡ không bao giờ quên ấy” nay đã không còn nữa
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường

Vầng trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung. Hình ảnh ánh trăng đang dần được nhân hóa lên: lặng lẽ “đi qua ngõ”… Ba năm sau kháng chiến, hòa bình được lập lại trên đất nước phồn hoa, trên thành phố hoa lệ. Cái thiên nhiên vĩ đại nguyên sơ ngày xưa: “đồng”; “bể”; “sông”; “rừng” biến mất, thay vào đó là một kích cỡ nhân tạo, cũng đồ sộ nhưng lộng lẫy hơn, uy nghi hơn, chói lòa hơn. Cuộc đời đổi thay, con người thay đổi, người ta bon chen hơn, ích kỉ hơn, vật chất hơn, gác lại cuộc sống tâm hồn vào góc quá khứ. Cũng như con đường lúc thẳng lúc vòng, lúc ngoặt, cuộc đời cũng có những lúc như thế! Trở lại cuộc sống thị thành của những con người vừa về thành phố, ta bắt gặp người lính năm xưa nay đang sống trong bủa vây tiện nghi sang trọng “ánh điện cửa gương” và những phòng “buyn-đinh” cao chót vót. Cuộc sống quá sung túc, đầy đủ đã khiến cho “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào dẫn vùi vào quên lãng. Những no đủ của cuộc sống hấp dẫn hơn cái tình nghĩa năm xưa hay sao? Hấp dẫn hơn cả quá khứ gian lao nơi chiến trường thắm tình đồng chí, đồng đội. Trăng nay thành “người dưng”, người xa lạ không quen không biết, tác giả không còn nhận ra người bạn tri kỉ hôm nào. Với kết cấu đối lập, “ánh điện cửa gương” sáng lòa lộng lẫy và “ánh trăng” dịu nhẹ thanh cao, tác giả như đang muốn bộc lộ một lời tự thú chân thành từ tận đáy sâu tấm lòng tác giả:
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn

“Thình lình”“đột ngột” không khỏi làm người đọc giật mình trước sự cố “mất điện” tại thành phố phồn hoa. Lúc ấy, mọi tầm cỡ tiện nghi bỗng trở về với nấc thanh số không tròn trĩnh. Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” như một phản xạ tự nhiên trong bóng tối con người hướng ra ánh sáng, chứ thực sự đó không phải là chủ ý đi tìm lại người bạn năm xưa của người lính. Và rồi không chỉ bạn đọc, mà ngay cả tác giả cũng phải giật mình khi “đột ngột vầng trăng tròn”. Ánh trăng năm xưa nay đang đứng im trước mặt người lính. Ánh trăng ấy vẫn đẹp, vẫn tròn, vẫn nồng diệu một thứ ánh sáng huyền ảo, lung linh. Nhưng vầng trăng kia xuất hiện đâu phải chỉ “cứu giúp” nguồn ánh sáng cho người lính mà nó còn mang lại sự xáo trộn trong tâm hồn người thi sĩ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Hai khuôn mặt tri âm tri kỉ ngày nào giờ đang đối diện nhau. Nguyễn Duy gặp lại người bạn năm xưa, kéo theo cả một vùng trời thôn quê quá khứ. Hai bên chẳng nói chẳng rằng, vầng trăng chỉ đứng yên vậy mà người lính lại thấy “có cái gì rưng rưng”. Kỉ niệm tuổi thơ ngày nào giờ lại ùa về đánh thức tâm hồn người chung cuộc
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Cảm xúc dâng trào mạnh mẽ với nhịp thơ gấp gáp dồn dập “như là”. Phải chăng đó chính là xúc cảm trong nỗi niềm xót xa ân hận vừa chợt nhớ lại quá khứ? Hóa ra kí ức chỉ tạm lắng xuống do con người quá mải mê tìm những thứ vật chất vô danh trước cuộc sống bộn bề bởi khi có tác động, nó lại sống dậy mạnh mẽ như chưa từng quên đi.
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

Hình ảnh ánh trăng “tròn vành vạnh” cho thấy quá khứ ngày đó nay vẫn vẹn nguyên, vẫn đẹp viên mãn, vẫn đầy đủ không khiếm khuyết dù ai kia vô tình, đổi thay. Và để rồi bởi chính trăng vô ngôn, không một lời trách móc đã khiến cho “người vô tình” nay bỗng “giật mình” tỉnh ngộ. Cái “im phăng phắc” của trăng vừa biểu thị sự bao dung độ lượng, vừa gây nỗi ám ảnh, dằn vặt bởi im lặng chính là sự trừng phạt đích đáng nhất dành cho những người lãng quên quá khứ, lãng quên lời hứa năm xưa của mình. Chính cái im lặng của ánh trăng đã gây xáo trộn những mơ mộng “ánh điện cửa gương” của con người, khiến con người phải dày xé tâm can, phải dằn vặt đau đớn.

Ánh trăng cũng chính là một biểu tượng thức tỉnh con người trở về với lối sống ân nghĩa thủy chung, “uống nước nhớ nguồn”. “Tòa án lương tâm” của con người ngay lập tức mở ra khi đối diện với quá khứ nghĩa tình, để con người nhận ra mình đang đứng ở đâu khi đã quên đi quá khứ. Người lính “giật mình” để nhìn lại chính mình, “giật mình” để thức tỉnh lương tam, “giật mình” để trân trọng lại quá khứ và “giật mình” để trở về với những giá trị cao đẹp vĩnh gằng. Cũng giống như Lí Bạch khi xa quê:
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
(ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương)

Giữa miền đất xa lạ, Lí Bạch nhìn vầng trăng để nhớ về quê hương mình, như níu lấy chút gì đó để sưởi ấm tam hồn người lữ khách. Còn với Nguyễn Duy, vầng trăng trên bầu trời kia còn gợi lại cả quá khứ đặc biệt làm cho tâm hồn thi sĩ và bạn đọc trở về với chính mình.

Bằng hình tượng “ánh trăng” thấm đượm ý nghĩa nhân văn, Nguyễn Duy đã gửi tới bạn đọc một lời nhắn gửi, một bức thông điệp thiết tha: “Hãy lắng lại một chút cái bận bịu cuộc sống để nhìn lại bản thân mình”. Qua thể thơ ngũ ngôn với giọng thơ chân thành, nhỏ nhẹ mà thấm sâu, hình ảnh giàu biểu tượng với ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, tác giả đã bộc lộ những suy nghĩ về một lẽ sống ân nghĩa, thủy chung cao quý trong cuộc sống. Ngoài ra với chữ cái đầu câu thơ không viết hoa, tác giả đã thành công khi để cho mạch cảm xúc trôi theo dòng chảy thời gian, theo mạch tự sự để bạn đọc có thể giao cảm với một tâm hồn đang hướng tới cái đẹp đáng trân trọng. Như Anatole Francel đã nói: “Đừng đánh mất quá khứ vì với quá khứ, người ta xây dựng tương lai”.

Bình luận (0)
Thảo Phương
7 tháng 1 2019 lúc 15:02

I. Mở bài
- Ánh trăng là đề tài quen thuộc của thi ca, là cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà thơ
- Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một “Ánh trăng”.
- Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn được biểu đạt một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng cho quá khứ trong mỗi đời người.
- Đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ.
II. Thân bài.
1. Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ
- Ánh trăng gắn với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê:
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với biển”
- Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hoà hợp với thiên nhiên trong lành: “trần trụi với thiên nhiên - hồn nhiên như cây cỏ”
- Ánh trăng gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu.
“Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến - vầng trăng tri kỉ. Nhân vật trữ tình gắn bó với trăng trong những năm dài kháng chiến. Trăng vẫn thuỷ chung, tình nghĩa.
2. Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại.
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
- Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “người dưng” - người khách qua đường xa lạ
+ Sự thay đổi của hoàn cảnh sống- không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện sống cách biệt
+ Hành động “vội bật tung cửa sổ” và cảm giác nhận ra “đột ngột vầng trăng tròn”, cho thấy quan hệ giữa người và trăng không còn là tri kỉ, tình nghĩa như xưa vì con người lúc này thấy trăng như một vật chiếu sáng thay thế cho điện sáng mà thôi.
+ Câu thơ dưng dưng - lạnh lùng - nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống.
=> Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở: đừng để những giá trị vật chất điều khiển chúng ta....
c. Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng.
- Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ.
+ Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tròn đầy, không mảy may sứt mẻ.
+ “Trăng tròn”, hình ảnh thơ khá hay, tình cảm trọn vẹn, chung thuỷ như năm xưa.
+Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn (nhân hoá). Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc!
- Ánh trăng đã thức dậy những kỉ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình cảm bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên.
+ Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ.
+ Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.
- Ánh Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
..............
Đủ cho ta giật mình”
+ Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. Ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
+“Giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái tiện nghi mà coi rẻ thiên nhiên.
Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong hoà bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.
III. Kết luận:
- Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua.
- Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm người, cách sống ân nghĩa thuỷ chung ở đời.
- Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.

Bình luận (0)
Võ Thị Ngọc Khánh
7 tháng 1 2019 lúc 15:42

Ăn năn là một trạng thái tinh thần mà trong đó người ta nghiêm khắc kiểm điểm mình, dũng cảm phán xét những tội lỗi, yếu kém của mình. Thực chất ăn năn là một cuộc đấu tranh âm thầm, một cuộc vật lộn không khoan nhượng: cái tốt, cái Thiện tuyên chiến với cái xấu, cái ác ; cái cao cả phủ định sự thấp hèn, lòng vị tha vượt lên sự vị kỷ ... Qua tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy ở bài thơ “Ánh trăng”, chúng ta như được thanh lọc lại tâm hồn mình, như lay động miền ký ức mà có lúc vô tình chúng ta đã lãng quên.

Chắc hẳn chúng ta chưa thể quên những lời thơ mộc mạc, giản dị mà chan chứa tình cảm trong bài thơ “Tre Việt Nam” của tác giả. Nếu như “Tre Việt Nam” tựa như một khúc đồng dao ngân nga trong tâm hồn thì bước vào thế giới của “Ánh trăng” ta lại gặp những lời thơ chân thành, ẩn chứa niềm băn khoăn, day dứt:

“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ”

Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn, Nguyễn Duy đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành của mình. Người đọc như thấy thấp thoáng bóng dáng một cậu bé hồn nhiên, lí lắc lớn lên theo tháng ngày nơi đồng ruộng, sông bể. Rồi cũng như thấy được cậu bé năm xưa thành chiến sĩ. Và đặc biệt trăng cũng như đồng, sông, bể những người bạn thuở ấu thơ - nay đã trở thành tri kỷ. Khổ thơ nhẹ nhàng đưa người đọc lần về quá khứ, hai chữ “hồi” ở câu một và ba làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và lúc trưởng thành! Và người dẫn đường chỉ lối cho dòng suy nghĩ ấy chính là ánh trăng. Dường như cái ánh sáng cao khiết ấy soi rọi đến từng ngõ ngách khiến con đường trở về quá khứ trở nên sáng rõ. Lời thơ như giọng nói thủ thỉ, tâm tình, như mở ra một không gian cổ tích. Truyện cổ thường bắt đầu rằng “Ngày xửa ngày xưa...” Phải chăng vì thế mà người đọc bị lôi cuốn theo lời tâm sự của tác giả? Và cái vầng trăng kia - cái vầng trăng từng làm mê đắm bao tâm hồn thi nhân của mọi thòi đại - hiện lên trong bài thơ vẫn rất mới mẻ, không hề trùng lặp:

“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”

Ở đây (và nói chung đối với thơ) tả không lấy tả là chính. Thơ là gợi là nhân trăng mà thổ lộ cảm xúc - ý tưởng. Vầng trăng hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ mà gần gũi. Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bạn hữu, “cái vầng trăng tình nghĩa” ấy đã từng khiến tác giả “ngỡ không bao giờ quên”. Mạch thơ vẫn được tiếp nối tựa như người bộ hành tiếp tục chuyến đi sau lúc nghỉ chân.

Ánh trăng vẫn len lỏi, quấn quít và có phần nồng nàn, đậm sắc hơn. Lời thơ vẫn thủ thỉ, tâm tình nhưng dường như đã xuất hiện những biến chuyển trong lời tâm sự của thi nhân “Ngỡ không bao giờ quên”, ừ ngày ấy chỉ “ngỡ” là sẽ thế nhưng có lẽ việc đó đã xảy ra rồi. Câu thơ đột ngột trở về hiện tại:

“Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”

Người đọc bị cuốn theo mạch cảm xúc của tác giả và cảm thấy có chút gì đó bàng hoàng như vừa nghe một lời thú tội. Xin đừng vội cho những lời thơ kia là những lời thanh minh. Đó chắc hẳn phải là những lời ‘‘thú tội” rất mực chân thành và dũng cảm. “Từ ngày về thành phố” có lẽ là khi chiến tranh đã qua rồi, cuộc sống yên bình đã trở lại và cũng có nghĩa là những gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu đã lùi xa. Những no đủ hạnh phúc của cuộc sống mới hấp dẫn hơn vầng trăng tri kỷ năm nào. Có lẽ vì thế mỗi khi vầng trăng đi qua chỉ như người lạ mặt, dường như tác giả không còn nhận ra đó đã từng là người bạn tri kỷ năm nào, từng là người bạn nghĩa tình ngày trước. Lời thơ pha chút chua xót, dường như tác giả đang cố giữ nguyên không để cho lời tâm tình kia xao động. Mỗi khổ thơ lại gợi mở trong lòng ta những cảm xúc khác nhau. Điều gì đã làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ ấy?. Cách viết giản dị, mộc mạc, thật khó tìm ra những lời thơ hoa mĩ hay những biện pháp tu từ nghệ thuật đặc biệt. Mà nếu có thì chúng cũng không đủ sức hấp dẫn đến thế?. Có lẽ chỉ có tấm lòng mới đủ sức níu kéo những tấm lòng. Nói như nhà thơ Vũ Quần Phương “chất thơ tinh tế chỉ đậu hờ vào chữ, tay phàm đụng vào dễ bay mất, nói chi mổ xẻ với phân tích”.

“Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”

Bốn câu thơ với hai từ “thình lình”; “đột ngột” làm người đọc giật mình - cái giật mình như một phản xạ kéo ta ra khỏi luồng suy nghĩ miên man. Vẫn là những lời kể lại nhưng rất khó xác định được thời gian. Dường như sự việc vừa xảy ra, hay đã xảy ra rồi? Có lẽ điều đó không quan trọng, chắc hẳn sự việc đó có sức ám ảnh rất lớn mới khiến tác giả viết như thế. Nhưng vẫn có gì đâu? Chỉ là vì “mất điện” nên phải “bật tung cửa sổ”“đột ngột vầng trăng tròn”. Có lẽ hành động mở cửa cũng chỉ là một phản xạ bình thường, nhưng vầng trăng tròn đột ngột xuất hiện như đánh thức tâm hồn người đọc:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng”

Cái nút tâm lý giờ đây đã được nới rộng và niềm tâm sự đang dần được tháo gỡ. Đây có lẽ không phải là việc ngắm trăng. Ta nhớ lại khi xưa Bác Hồ đã từng viết:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song kích khán thi gia”

Người ngắm trăng, trăng ngắm người - người cũng đủ sức làm mê đắm hồn trăng. Giữa vầng trăng và thi nhân là mối giao cảm của những người tri kỷ, bởi thế song sắt nhà tù trở nên mong manh. Nhưng ở đây, cũng là mặt đối mặt, khung cửa sổ dường như không hiện hữu chỉ có hai tấm lòng đang đối diện. Cái nhìn đăm đắm mà như mờ ảo và “cái gì rưng rưng” thật khó gọi tên. Thế rồi bao nhiêu điều ùa về chiếm lĩnh tâm hồn Nguyễn Duy. Trăng đấy - người bạn tri kỷ năm xưa, kẻ tri âm dạo nào. Và rồi hiện lên là cả ấu thơ hồn nhiên, trong mát. Ánh trăng soi rọi tâm hồn và những nẻo đường trong ký ức:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”

Dường như khổ thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự. Trăng vẫn thế, trăng nhìn cố nhân vô tình kia vẫn bằng con mắt trong trẻo. Chỉ có lương tâm thi nhân đang lên tiếng, những lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt.

Thà rằng trăng cất lời trách móc hay ẩn mình sau đám mây nào đó, có lẽ lòng kẻ vô tình kia đỡ ân hận. Nhưng không, trăng lặng im không nói, cái lặng im làm “ta giật mình”. Nếu như người đọc đã từng giật mình như một phản xạ thì đến đây có lẽ sẽ cảm nhận được cái giật mình của lương tâm. Vẫn biết rằng vầng trăng trên kia khi ta chưa sinh ra cũng cứ khuyết lại tròn, khi ta tồn tại hay sau này ta có thành cát bụi trăng cứ tròn lại khuyết vậy thôi. Nhưng chính cái giật mình thức tỉnh đáng trân trọng của tác giả khiến lòng ta cảm động. Một sự thức tỉnh đầy ý nghĩa. Có người sẽ hỏi rằng nếu không mất điện liệu nhà thơ có được sự thức tỉnh ấy không? Một lần nữa xin đừng “mổ xẻ” câu chữ, hãy gượng nhẹ mà đón lấy niềm tâm sự sâu kín của thi nhân. Nguyễn Duy đã diễn tả rất thành công những biến thái tinh vi của một tâm hồn trong quá trình ăn năn, hối hận. Nếu ai đã có lần đọc “Hơi ấm ổ rơm” của tác giả sẽ nhận thấy cảm xúc của Nguyễn Duy rất dễ rung với những tình huống giản dị mà có lẽ ít nhà thơ có được:

“Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác, gày gò
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người”

Lớn lên trong cảnh nghèo ở nông thôn Thanh Hoá tác giả thường có những câu thơ xúc động, thâm thuý về đời sống lam lũ, vất vả của bà con lao động. Chính vì thế, những lời thơ của Nguyễn Duy thường rất mộc mạc, dân dã mà vẫn rất xúc động. Người đọc cảm nhận sâu sắc những gì tâm hồn nhà thơ muốn chia sẻ có lẽ nhờ vào nguồn mạch chân thành ấy.

Trở lại với “Ánh trăng”, có lẽ niềm tâm sự sâu kín giờ đây không chỉ còn là của riêng Nguyễn Duy nữa. Ý kết của bài thơ đã nâng những suy nghĩ của tác giả lên tầm khái quát - triết lý: ai cũng có những lúc vô tình quên đi những gì tốt đẹp của ngày xưa. Nếu như không có sự thức tỉnh, những lúc “giật mình”nhìn lại của lương tâm thì biết đâu chúng ta sẽ đánh mất chính mình? Và với Nguyễn Duy nếu tác giả không phải là người từng có một thòi sống như thế, làm sao có được niềm tâm sự đáng quý như vậy? Những chặng đường của quá khứ và hiện tại cứ nối tiếp nhau, lúc thì đan xen, khi thì tách rời khiến ta nhìn rõ nét băn khoăn, rối bời của tâm trạng, cả bài thơ được đẫm trong ánh trăng trong trẻo, ngời mát và ám ảnh. Lý Bạch đã từng có hai câu thơ rất nổi tiếng:

“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cô hương”

Giữa miền đất xa lạ dẫu vẫn nằm trên đất Trung Hoa, Lý Bạch nhìn vầng trăng mà nhớ quê hương mình, như níu lấy chút gì thân quen để sưởi ấm tâm hồn người lữ khách. Thì với Nguyễn Duy, vầng trăng ngời tỏ trên bầu trời kia gợi lại cả một thời trong quá khứ và đặc biệt làm cho tâm hồn thi nhân bừng tỉnh và trở về chính mình. Có bao giờ ta tự hỏi tại sao cũng chỉ là vầng trăng ấy thôi, con người lại có thể nhìn thấy nhiều điều khác nhau đến thế. Lúc ấy, hãy nhớ lại câu nói của Macxen Prutxtơ: “Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”.

Đọc “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, người đọc như một lần được đối diện với chính mình và cũng đồng thời giao cảm với một tâm hồn đáng trân trọng, vẫn còn trong trẻo trên cao, vầng trăng tròn vành vạnh, vẫn còn vương vấn đâu đây ánh sáng trong mát, nhẹ nhàng, im ắng quấn quện trong tâm hồn mỗi chúng ta .

Bình luận (0)
Nguyễn Linh
7 tháng 1 2019 lúc 17:36

Hẳn chúng ta chưa thể quên những lời thơ mộc mạc, giản dị mà chan chứa tình cảm trong bài thơ “Tre Việt Nam” của tác giả. Nếu như “Tre Việt Nam” tựa như một khúc đồng dao ngân nga trong tâm hồn thì bước vào thế giới của “Ánh trăng” ta lại gặp những lời thơ chân thành, ẩn chứa niềm băn khoăn, day dứt:

“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ”

Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn, Nguyễn Duy đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành của mình. Người đọc như thấy thấp thoáng bóng dáng một cậu bé hồn nhiên, lí lắc lớn lên theo tháng ngày nơi đồng ruộng, sông bể. Rồi cũng như thấy được cậu bé năm xưa thành chiến sĩ. Và đặc biệt trăng cũng như đồng, sông, bể những người bạn thuở ấu thơ - nay đã trở thành tri kỷ. Khổ thơ nhẹ nhàng đưa người đọc lần về quá khứ, hai chữ “hồi” ở câu một và ba làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và lúc trưởng thành! Và người dẫn đường chỉ lối cho dòng suy nghĩ ấy chính là ánh trăng. Dường như cái ánh sáng cao khiết ấy soi rọi đến từng ngõ ngách khiến con đường trở về quá khứ trở nên sáng rõ. Lời thơ như giọng nói thủ thỉ, tâm tình, như mở ra một không gian cổ tích. Truyện cổ thường bắt đầu rằng “Ngày xửa ngày xưa...” Phải chăng vì thế mà người đọc bị lôi cuốn theo lời tâm sự của tác giả? Và cái vầng trăng kia - cái vầng trăng từng làm mê đắm bao tâm hồn thi nhân của mọi thòi đại - hiện lên trong bài thơ vẫn rất mới mẻ, không hề trùng lặp:

“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”

Ở đây (và nói chung đối với thơ) tả không lấy tả là chính. Thơ là gợi là nhân trăng mà thổ lộ cảm xúc - ý tưởng. Vầng trăng hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ mà gần gũi. Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bạn hữu, “cái vầng trăng tình nghĩa” ấy đã từng khiến tác giả “ngỡ không bao giờ quên”. Mạch thơ vẫn được tiếp nối tựa như người bộ hành tiếp tục chuyến đi sau lúc nghỉ chân.

Ánh trăng vẫn len lỏi, quấn quít và có phần nồng nàn, đậm sắc hơn. Lời thơ vẫn thủ thỉ, tâm tình nhưng dường như đã xuất hiện những biến chuyển trong lời tâm sự của thi nhân “Ngỡ không bao giờ quên”, ừ ngày ấy chỉ “ngỡ” là sẽ thế nhưng có lẽ việc đó đã xảy ra rồi. Câu thơ đột ngột trở về hiện tại:

“Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”

Người đọc bị cuốn theo mạch cảm xúc của tác giả và cảm thấy có chút gì đó bàng hoàng như vừa nghe một lời thú tội. Xin đừng vội cho những lời thơ kia là những lời thanh minh. Đó chắc hẳn phải là những lời ‘‘thú tội” rất mực chân thành và dũng cảm. “Từ ngày về thành phố” có lẽ là khi chiến tranh đã qua rồi, cuộc sống yên bình đã trở lại và cũng có nghĩa là những gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu đã lùi xa. Những no đủ hạnh phúc của cuộc sống mới hấp dẫn hơn vầng trăng tri kỷ năm nào. Có lẽ vì thế mỗi khi vầng trăng đi qua chỉ như người lạ mặt, dường như tác giả không còn nhận ra đó đã từng là người bạn tri kỷ năm nào, từng là người bạn nghĩa tình ngày trước. Lời thơ pha chút chua xót, dường như tác giả đang cố giữ nguyên không để cho lời tâm tình kia xao động. Mỗi khổ thơ lại gợi mở trong lòng ta những cảm xúc khác nhau. Điều gì đã làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ ấy?. Cách viết giản dị, mộc mạc, thật khó tìm ra những lời thơ hoa mĩ hay những biện pháp tu từ nghệ thuật đặc biệt. Mà nếu có thì chúng cũng không đủ sức hấp dẫn đến thế?. Có lẽ chỉ có tấm lòng mới đủ sức níu kéo những tấm lòng. Nói như nhà thơ Vũ Quần Phương “chất thơ tinh tế chỉ đậu hờ vào chữ, tay phàm đụng vào dễ bay mất, nói chi mổ xẻ với phân tích”.

“Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”

Bốn câu thơ với hai từ “thình lình”; “đột ngột” làm người đọc giật mình - cái giật mình như một phản xạ kéo ta ra khỏi luồng suy nghĩ miên man. Vẫn là những lời kể lại nhưng rất khó xác định được thời gian. Dường như sự việc vừa xảy ra, hay đã xảy ra rồi? Có lẽ điều đó không quan trọng, chắc hẳn sự việc đó có sức ám ảnh rất lớn mới khiến tác giả viết như thế. Nhưng vẫn có gì đâu? Chỉ là vì “mất điện” nên phải “bật tung cửa sổ”“đột ngột vầng trăng tròn”. Có lẽ hành động mở cửa cũng chỉ là một phản xạ bình thường, nhưng vầng trăng tròn đột ngột xuất hiện như đánh thức tâm hồn người đọc:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng”

Cái nút tâm lý giờ đây đã được nới rộng và niềm tâm sự đang dần được tháo gỡ. Đây có lẽ không phải là việc ngắm trăng. Người ngắm trăng, trăng ngắm người - người cũng đủ sức làm mê đắm hồn trăng. Ở đây, khung cửa sổ dường như không hiện hữu chỉ có hai tấm lòng đang đối diện. Cái nhìn đăm đắm mà như mờ ảo và “cái gì rưng rưng” thật khó gọi tên. Thế rồi bao nhiêu điều ùa về chiếm lĩnh tâm hồn Nguyễn Duy. Trăng đấy - người bạn tri kỷ năm xưa, kẻ tri âm dạo nào. Và rồi hiện lên là cả ấu thơ hồn nhiên, trong mát. Ánh trăng soi rọi tâm hồn và những nẻo đường trong ký ức:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”

Dường như khổ thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự. Trăng vẫn thế, trăng nhìn cố nhân vô tình kia vẫn bằng con mắt trong trẻo. Chỉ có lương tâm con người đang lên tiếng, những lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt.

Thà rằng trăng cất lời trách móc hay ẩn mình sau đám mây nào đó, có lẽ lòng kẻ vô tình kia đỡ ân hận. Nhưng không, trăng lặng im không nói, cái lặng im làm “ta giật mình”. Nếu như người đọc đã từng giật mình như một phản xạ thì đến đây có lẽ sẽ cảm nhận được cái giật mình của lương tâm. Vẫn biết rằng vầng trăng trên kia khi ta chưa sinh ra cũng cứ khuyết lại tròn, khi ta tồn tại hay sau này ta có thành cát bụi trăng cứ tròn lại khuyết vậy thôi. Nhưng chính cái giật mình thức tỉnh đáng trân trọng của tác giả khiến lòng ta cảm động. Một sự thức tỉnh đầy ý nghĩa.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Thanh Tâmm
Xem chi tiết
Đoàn Thị Linh Chi
Xem chi tiết
Lâm Kevin
Xem chi tiết
Thúy Hằng
Xem chi tiết
yoona
Xem chi tiết
Yany Yany
Xem chi tiết
Thanh Huyền
Xem chi tiết
Thanh Huyền
Xem chi tiết
mianna25
Xem chi tiết