Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Gia Lai , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 13
Số lượng câu trả lời 49
Điểm GP 12
Điểm SP 38

Người theo dõi (14)

TACA CHANNEL
I LOVE BTS
Trần Mạnh Hòa
Đỗ Phương Anh

Đang theo dõi (1)

do thai

Câu trả lời:

Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều đau khổ.

Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân, có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung : “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc ***** mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an : chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bẳn thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :

Đau đớn thay phậh đàn bà,

Lời rằng bậc mệnh cũng là lời chung.

Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. ơ đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ không gì sánh được.

Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự :

Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu : một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết :

Thân em ưừa trắng lại ưừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điểu kiện phát triển.

Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy.

Câu trả lời:

Cuộc sống xung quanh ta không phải toàn màu hồng như chúng ta nghĩ chính vì lẽ đó không phải ai sinh ra đều có cuộc sống hạnh phúc. Một danh nhân đã nói: "Không có số phận, chỉ có những quyết định của con người làm nên số phận mà thôi". Thật vậy, nước ta có nhiều tấm gương vượt lên số phận, học tập thành công trong cuộc sống như: thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, thương binh Nguyễn Trọng Hợp,... Họ đã vượt lên và chiến thắng số phận khiến bao người phải cảm phục.

Cuộc sống chúng ta có rất nhiều người có hoàn cảnh khó khăn. Thế nhưng vẫn có “Những người không chịu thua số phận”. Đó là những con người có ý chí, nghị lực, niềm tin vào cuộc sống. Họ không đầu hàng trước số phận mà mạnh mẽ vươn lên để sống một cuộc sống có ích và ý nghĩa.Chắc trong chúng ta cũng biết đến cậu học trò Nguyễn Ngọc Kí, vốn là một tấm gương sáng cho nghị lực vươn lên khó khăn. Tấm gương Nguyễn Ngọc Kí được đưa vào sách giáo khoa để dạy đạo đức cho học sinh. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, bản thân lại bị liệt cả hai tay khiến cho Nguyễn Ngọc Kí gặp nhiều trở ngại trong quá trình học tập thực hiện ước mơ của mình. Nhưng cậu không từ bỏ, quyết tâm rèn luyện học tập bằng chính đôi chân của mình trở thành một giá giáo ưu tú xuất sắc như cậu từng ao ước.Không chỉ có Nguyễn Ngọc Kí, mà nhiều tấm gương như Đỗ Trọng Khơi bị bại liệt đã tự học, trở thành nhà thơ; anh Trần Văn Thước bị tai nạn lao động, liệt toàn thân đã tự học, trở thành nhà văn,.. Từ những câu chuyện đó chúng ta thấy được một tinh thần nghị lực kiên cường phấn đấu không mỏi mệt. Họ chính là biểu tượng, tượng đài cho những con người không chịu thua số phận mà chúng ta không khỏi khâm phục, ngưỡng mộ và tôn trọng họ.

Trước hết, theo chúng ta, điều gì đã thúc đẩy họ có cho mình một nghị lực phi thường như vậy? Đối với những con người gặp hoàn cảnh khó khăn ấy, họ nhận thức được so với những người bình thường khác họ gặp phải trở ngại, khó khăn, khác biệt gì. Chình vì họ nhận thức được bản thân mình đang gặp trở ngại gì, vì thế họ khao khát ước muốn hào nhập, muốn sống cuộc sông như những người bình thường khác. Họ muốn bản thân mình không hề yếu kém hai trong mắt những người xung quanh. Sự khao khát cùng với những lời động viên chân thành từ những người thân , bạn be, và những người xung quanh cũng tạo nên động lực để họ cố gắng hết mình, biến ước mơ của mình đã hóa thành nghị lực, sự quyết tâm cố gắng không ngừng nghỉ để đặt được những gì bản thân mình mong muốn. Hay có thể nói chính sự “không chịu thua số phận” giúp họ có tinh thần, quyết tâm vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình để sống có ích, sống có cống hiến cho xã hội, giảm bớt gánh nặng cho gia đình… “Tàn” nhưng không “phế”, bằng khả năng của mình họ đã có nhiều thành công và khẳng định được mình trong xã hội.

Không những thế những người không chịu thua số phận ấy, họ đã biến chính những khuyết điểm của bản thân mình trở thành sức mạnh, trở thành những nỗ lực để họ quyết tâm làm mọi việc. Họ nhận ra rằng số phận nằm trong tay mỗi con người và họ quyết tâm vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho mình và người thân, để trở thành người có ích. Họ khao khát được đóng nhiều đóng góp nhiều cho xã hội bằng nhiều cách khác nhau: phục vụ mình, làm ra của cải nuôi sống bản thân, giảm bớt gánh nặng cho gia đình, cho xã hội, cống hiến cho xã hội… Họ là những tấm gương sáng, tấm gương vươn lên trên nỗi bất hạnh của mình để cất lên những tiếng ca ca ngợi cuộc đời, nhen lên niềm tin lẽ sống cho mọi người…

Trong cuộc sống có rất nhiều những tấm gương để chúng ta học tập. Nguyễn Ngọc Ký, Hiệp sĩ công nghệ thông tin Nguyễn Công Hùng, từ khi còn nhỏ đã mắc căn bệnh hiểm nghèo khiến anh bị liệt toàn thân, nhưng anh vẫn cố gắng học tập, mở trung tâm tin học dành cho người khuyết tật, giúp đỡ họ có một hướng đi trong cuộc đời mình, có niềm tin vào cuộc sống… Những con người như Nick Vujicic – chàng trai người Úc sinh ra với cơ thể không tay không chân, nhưng anh trở thành một diễn giả nổi tiếng khắp thế giới, được mọi người biết đến như một tấm gương của sự vượt khó…, Vua đầu bếp Christine Hà, cô gái người Việt bị mù nhưng đam mê nấu nướng đạt giải thưởng vua đầu bếp Mỹ. Không đao to búa lớn, đấy chính là cuộc đời họ - “những người không chịu thua số phận” là thông điệp cao cả về lối sống có ích. Làm thơ, viết văn, dạy học… bằng những công việc thầm lặng, họ đã cống hiến cho xã hội như cây xanh làm đẹp cho đời, điểm tô cho cuộc sống
Họ chính là những tấm gương điểm hình chứng minh cho sự lỗ lực, nghị lực quyết tâm phi thường của mình khiến chúng ta cần phải noi theo.

Bên cạnh những tấm gương vươn lên trong học tập, cuộc sống đáng tự hào ấy, bên cạnh chúng ta vẫn có những con người sống thực dụng, lười nhác, mỗi khi gặp khó khăn thường rất dễ nản lòng, chưa thật sự cố gắng đã đầu hàng số phận, dễ buông xuôi hoặc ý lại, hoặc phản ứng tiêu cực…sống hèn nhát, không dám đối diện với sự thật nên khó thành công trong mọi việc. Đó là những con người đáng phê phán trong xã hội ta.

Vậy trước những tấm gương đó chúng ta cần phải làm gì trước những tấm gương, và những con người đã và đang gặp khó khăn trong cuộc sống ấy. Chúng ta hãy chung tay gíup đỡ, động viên những con người khuyết tật, những con người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sông. Mỗi chúng ta cần học tập ở ở chính sự nỗ lực và quyết tâm phi thường không ngừng nghỉ phấn đấu của họ để bản thân chúng ta cũng như họ, cố gắng hết mình cống hiến cho đất nước để hoàn thành trách nghiệm của chính bản thân mình và cũng chính là để cho cuộc sông của mình thêm ý nghĩa:

"Muốn làm con chim chiếc lá

Thì con chim phải hót chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình"

Những con người vươn lên hoàn cảnh ấy là một tấm gương để chúng ta phản chiếu chính bản thân mình, là hồi chuông cảnh tỉnh đối với những con sống chưa đúng. Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng hết mình dựng xây lên một đất nước tươi đẹp. Bạn hãy tự đi trên đôi bàn chân của chính mình , chắc chắn bạn sẽ tới cái đích mà bạn mong muốn!

Câu trả lời:

Hẳn chúng ta chưa thể quên những lời thơ mộc mạc, giản dị mà chan chứa tình cảm trong bài thơ “Tre Việt Nam” của tác giả. Nếu như “Tre Việt Nam” tựa như một khúc đồng dao ngân nga trong tâm hồn thì bước vào thế giới của “Ánh trăng” ta lại gặp những lời thơ chân thành, ẩn chứa niềm băn khoăn, day dứt:

“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ”

Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn, Nguyễn Duy đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành của mình. Người đọc như thấy thấp thoáng bóng dáng một cậu bé hồn nhiên, lí lắc lớn lên theo tháng ngày nơi đồng ruộng, sông bể. Rồi cũng như thấy được cậu bé năm xưa thành chiến sĩ. Và đặc biệt trăng cũng như đồng, sông, bể những người bạn thuở ấu thơ - nay đã trở thành tri kỷ. Khổ thơ nhẹ nhàng đưa người đọc lần về quá khứ, hai chữ “hồi” ở câu một và ba làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và lúc trưởng thành! Và người dẫn đường chỉ lối cho dòng suy nghĩ ấy chính là ánh trăng. Dường như cái ánh sáng cao khiết ấy soi rọi đến từng ngõ ngách khiến con đường trở về quá khứ trở nên sáng rõ. Lời thơ như giọng nói thủ thỉ, tâm tình, như mở ra một không gian cổ tích. Truyện cổ thường bắt đầu rằng “Ngày xửa ngày xưa...” Phải chăng vì thế mà người đọc bị lôi cuốn theo lời tâm sự của tác giả? Và cái vầng trăng kia - cái vầng trăng từng làm mê đắm bao tâm hồn thi nhân của mọi thòi đại - hiện lên trong bài thơ vẫn rất mới mẻ, không hề trùng lặp:

“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”

Ở đây (và nói chung đối với thơ) tả không lấy tả là chính. Thơ là gợi là nhân trăng mà thổ lộ cảm xúc - ý tưởng. Vầng trăng hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ mà gần gũi. Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bạn hữu, “cái vầng trăng tình nghĩa” ấy đã từng khiến tác giả “ngỡ không bao giờ quên”. Mạch thơ vẫn được tiếp nối tựa như người bộ hành tiếp tục chuyến đi sau lúc nghỉ chân.

Ánh trăng vẫn len lỏi, quấn quít và có phần nồng nàn, đậm sắc hơn. Lời thơ vẫn thủ thỉ, tâm tình nhưng dường như đã xuất hiện những biến chuyển trong lời tâm sự của thi nhân “Ngỡ không bao giờ quên”, ừ ngày ấy chỉ “ngỡ” là sẽ thế nhưng có lẽ việc đó đã xảy ra rồi. Câu thơ đột ngột trở về hiện tại:

“Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”

Người đọc bị cuốn theo mạch cảm xúc của tác giả và cảm thấy có chút gì đó bàng hoàng như vừa nghe một lời thú tội. Xin đừng vội cho những lời thơ kia là những lời thanh minh. Đó chắc hẳn phải là những lời ‘‘thú tội” rất mực chân thành và dũng cảm. “Từ ngày về thành phố” có lẽ là khi chiến tranh đã qua rồi, cuộc sống yên bình đã trở lại và cũng có nghĩa là những gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu đã lùi xa. Những no đủ hạnh phúc của cuộc sống mới hấp dẫn hơn vầng trăng tri kỷ năm nào. Có lẽ vì thế mỗi khi vầng trăng đi qua chỉ như người lạ mặt, dường như tác giả không còn nhận ra đó đã từng là người bạn tri kỷ năm nào, từng là người bạn nghĩa tình ngày trước. Lời thơ pha chút chua xót, dường như tác giả đang cố giữ nguyên không để cho lời tâm tình kia xao động. Mỗi khổ thơ lại gợi mở trong lòng ta những cảm xúc khác nhau. Điều gì đã làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ ấy?. Cách viết giản dị, mộc mạc, thật khó tìm ra những lời thơ hoa mĩ hay những biện pháp tu từ nghệ thuật đặc biệt. Mà nếu có thì chúng cũng không đủ sức hấp dẫn đến thế?. Có lẽ chỉ có tấm lòng mới đủ sức níu kéo những tấm lòng. Nói như nhà thơ Vũ Quần Phương “chất thơ tinh tế chỉ đậu hờ vào chữ, tay phàm đụng vào dễ bay mất, nói chi mổ xẻ với phân tích”.

“Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”

Bốn câu thơ với hai từ “thình lình”; “đột ngột” làm người đọc giật mình - cái giật mình như một phản xạ kéo ta ra khỏi luồng suy nghĩ miên man. Vẫn là những lời kể lại nhưng rất khó xác định được thời gian. Dường như sự việc vừa xảy ra, hay đã xảy ra rồi? Có lẽ điều đó không quan trọng, chắc hẳn sự việc đó có sức ám ảnh rất lớn mới khiến tác giả viết như thế. Nhưng vẫn có gì đâu? Chỉ là vì “mất điện” nên phải “bật tung cửa sổ”“đột ngột vầng trăng tròn”. Có lẽ hành động mở cửa cũng chỉ là một phản xạ bình thường, nhưng vầng trăng tròn đột ngột xuất hiện như đánh thức tâm hồn người đọc:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng”

Cái nút tâm lý giờ đây đã được nới rộng và niềm tâm sự đang dần được tháo gỡ. Đây có lẽ không phải là việc ngắm trăng. Người ngắm trăng, trăng ngắm người - người cũng đủ sức làm mê đắm hồn trăng. Ở đây, khung cửa sổ dường như không hiện hữu chỉ có hai tấm lòng đang đối diện. Cái nhìn đăm đắm mà như mờ ảo và “cái gì rưng rưng” thật khó gọi tên. Thế rồi bao nhiêu điều ùa về chiếm lĩnh tâm hồn Nguyễn Duy. Trăng đấy - người bạn tri kỷ năm xưa, kẻ tri âm dạo nào. Và rồi hiện lên là cả ấu thơ hồn nhiên, trong mát. Ánh trăng soi rọi tâm hồn và những nẻo đường trong ký ức:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”

Dường như khổ thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự. Trăng vẫn thế, trăng nhìn cố nhân vô tình kia vẫn bằng con mắt trong trẻo. Chỉ có lương tâm con người đang lên tiếng, những lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt.

Thà rằng trăng cất lời trách móc hay ẩn mình sau đám mây nào đó, có lẽ lòng kẻ vô tình kia đỡ ân hận. Nhưng không, trăng lặng im không nói, cái lặng im làm “ta giật mình”. Nếu như người đọc đã từng giật mình như một phản xạ thì đến đây có lẽ sẽ cảm nhận được cái giật mình của lương tâm. Vẫn biết rằng vầng trăng trên kia khi ta chưa sinh ra cũng cứ khuyết lại tròn, khi ta tồn tại hay sau này ta có thành cát bụi trăng cứ tròn lại khuyết vậy thôi. Nhưng chính cái giật mình thức tỉnh đáng trân trọng của tác giả khiến lòng ta cảm động. Một sự thức tỉnh đầy ý nghĩa.