Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 97
Số lượng câu trả lời 176
Điểm GP 17
Điểm SP 96

Người theo dõi (40)

Đang theo dõi (5)

Hà Thùy Dương
Sen Phùng
Ngọc Hnue
Phạm Thuỷ
Vu Nguyet Anh

Câu trả lời:

Xưa nay làng Tiên Điền, quê hương Đại thi hào Nguyễn Du được nhiều người biết đến là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Nhưng ở đây còn là “đất học”, từ những chức sắc, lý dịch trong làng đến người dân đều thấm thía và coi trọng sự học.

Là một làng cổ, xã Tiên Điền có bề dày truyền thống văn hóa, lịch sử. Gia phả một số dòng họ ở Tiên Điền như “Hoan Châu, Nghi Tiên Nguyễn thế gia” chép họ Nguyễn về đất này lập nghiệp đầu thế kỷ XVII. Khi họ Nguyễn về lập nghiệp, ở xã Tiên Điền đã có cư dân sinh sống. Sách Nghi Xuân địa chí chép ông thủy tổ họ Nguyễn – Tiên Điền là “kiều ngụ” (dân ngụ cư). Họ Nguyễn gốc từ Tả Thanh Oai (Hà Đông cũ, nay thuộc Hà Nội) di cư đến đã tạo ra bề dày truyền thống hiếu học, khoa bảng, có trình độ học vấn uyên bác và dòng văn chương nổi danh xứ Nghệ.

Trong quá trình tạo dựng và phát triển văn hóa lịch sử , đất “lắm quan” Tiên Điền đặc biệt quan tâm, chăm lo việc học hành, khoa bảng. Tuy ruộng đất ít nhưng dưới thời nhà Nguyễn, chức sắc xã Tiên Điền vẫn trích khoản ruộng 5 mẫu 4 sào cho việc học, gọi là học điền. Số học điền này được chia đều cho 3 hạng sĩ tử đỗ đạt từ người đỗ tiến sỹ đến cử nhân, tú tài đều được chia 1 mẫu 8 sào. Ở Tiên Điền còn có “ruộng đầu xã” dành cho những người đỗ đạt cao nhất làng. Một số dòng họ cũng góp tiền tậu ruộng làm học điền để khuyến khích con em học tập. Truyền thống hiếu học còn được thể hiện ở việc tôn trọng thầy đồ nho dạy học. Ở Tiên Điền có một loại ruộng được gọi là ruộng “đồng môn”, tiền của học trò đóng góp tậu rồi thay nhau cày cấy nuôi thầy dạy học.

Lý giải sự phát đạt ở đất học Tiên Điền, người ta cho rằng “đất có thổ công, sông có hà bá”, “đất quê lề thói” từ Tháp Bút, Đài Nghiên. Sách Nghi Xuân địa chí chép xã Tiên Điền có cồn Tháp Bút (Bút đôi): “Phía nam bàu (ao) Phố Quán nổi lên một doi cồn vuông, xếp thành từng bậc giống như cái ấn. Các nhà địa lý cho đó là hình “ấn nổi trên nước” (ấn phù thủy diện). Phía bắc bàu có một doi đất cát hình nhọn, từ bờ nhô ra, các nhà địa lý cho là hình bút tể tướng, bởi trước đây khi Xuân Nhạc Công thi đỗ về quê dựng đình hóng mát ở đó”. Vị trí cồn Tháp Bút nay ở ruộng lúa cánh đồng Đầm, bên ngoài khu di tích lưu niệm Nguyễn Du. Cồn Tháp Bút cách cây bồ lỗ khoảng 50 – 60 m, phía bên ngoài đường hơi chếch về hướng Tây Nam. Diện tích cồn Tháp Bút ước khoảng 300m2, những năm 1990 khi chia đất khoán hộ cồn Tháp Bút này mới bị nông dân phá để lấy đất sản xuất. Cạnh cồn Tháp Bút là ruộng bút mực. Bút Tể tướng là cồn cát lớn cạnh bờ sông Lam, phía bắc trước cổng trường Phổ thông Trung học Nguyễn Du. Hiện nay các hội đoàn thể và nhân dân Tiên Điền trồng cây làm rừng chắn cát bay vào làng. Phía nam cách Tháp Bút khoảng 150 m là cồn Đài Nghiên. Đài Nghiên có vị trí ở giữa đất Thạch Nện và Cầu Mái. Qua tìm hiểu được biết bút Tể tướng, Tháp Bút và Đài Nghiên ở xã Tiên Điền trước đây cấu trúc theo trục thẳng. Hiện nay Tháp Bút, Đài Nghiên đã bị san phẳng, chỉ còn bút Tể tướng.

Người dân Tiên Điền có quan niệm, Tháp Bút, Đài Nghiên, bút Tể tướng là đất thiêng phát tích truyền thống học hành, phát đạt khoa bảng và văn chương của con em trong làng. Đất học Tiên Điền đã sinh ra 6 người con ưu tú thi đỗ đại khoa, trong đó có 1 Hoàng giáp là Nguyễn Nghiễm, 4 tiến sĩ và 1 Phó bảng là Hà Văn Đại. Ngoài ra, đất học này có 29 người đỗ hương cống, cử nhân và 11 tú tài thời Hán học. Ngày nay, con đường học hành, thi cử ở xã Tiên Điền cũng rất phát đạt về học hàm, học vị. Xã có nhiều người nổi tiếng như giáo sư Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Nuôi… Bên cạnh dòng khoa bảng, đất thiêng cũng sinh ra dòng văn học với những tác giả, tác phẩm nổi tiếng được lưu truyền đến nay. Đó là những trước tác của dòng họ Nguyễn – Tiên Điền như “Nam Dương tập yếu kinh nguyên” của Nguyễn Nhậm; “Dịch kinh quyết nghị” của Nguyễn Quỳnh; “Quân trung liên vịnh” “Xuân đình tạp vịnh”, “Việt sử bị lãm”, “Lạng Sơn đoàn thành đồ chí”, “Cổ lễ nhạc chương thi văn tập”, “Khổng Tử mộng Chu công” của Nguyễn Nghiễm; “Tự tình khúc” của Nguyễn Khản; “Quế Hiên thi tập”, “Hoa trình tiền hậu tập” của Nguyễn Nễ; “Thanh Hiên tiền hậu tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”, “Truyện Kiều”, “Văn chiêu hồn”, “Văn tế Trường Lưu nhị nữ”, “Thác lời trai phường nón Tiên Điền” của Nguyễn Du; “Châu trần di cảo” của Nguyễn Nghi; “Đông Phủ thi tập”, “Huyền cơ đạo thuật bí thư”, “Nhuận sắc Hoa tiên” của Nguyễn Thiện; “Quan Đông Hải thi tập”, “Minh quyên thi tập”, “Thiên hạ nhân vật thư” của Nguyễn Hành. Trước tác của họ Trần có “Tiểu học toàn thư” sách dịch của Trần Lục Nam. Trước tác của họ Hoàng có “Thái hiền dư thi tập”, “Tập phú”, “Tập tứ học” của Hoàng Kim Thanh.

Cồn Tháp Bút, cồn Đài Nghiên và bút Tể tướng có ý nghĩa quan trong trong đời sống tinh thần của người dân Tiên Điền. Đây là danh thắng nổi tiếng trong hệ thống chợ Tiên, cầu Tiên, cầu Bảo Kệ, bàu Phố Quán… được các thi sĩ đương thời như Nguyễn Hành làm 8 bài thơ vịnh cảnh. Thiết nghĩ, cần phục chế cồn Tháp Bút, cồn Đài Nghiên ở Tiên Điền, để tạo ra không gian văn hóa phục vụ du khách tham quan di tích đặc biệt quốc gia khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du- danh nhân văn hóa thế giới.

Câu trả lời:

Ngày Tết là ngày mà trẻ em chúng ta đều mong đợi. Cái không khí se lạnh còn vương lại trên những vườn cây,những cánh đồng lúa bát ngát và những ngôi nhà tranh. ôi,muà xuân thật dễ chịu,những làn gió mang về những hơi ấm của mùa xuân,xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông.
Hôm nay,có cái gì lạ lắm trong căn phòng bé nhỏ. những tia nắng ấm áp chiếu qua tấm kính cửa sổ. Sao trong lòng tôi cảm thấy háo hức lạ kì. Mọi thứ quanh tôi đều trở nên lạ lẫm. Vừa bước ra sân,thì ôi!Mọi thứ,tất cả mọi thứ đều không còn là nó nữa.Trước mắt tôi,mọi thứ mà đối với tôi đều rất quen thuộc giờ đây đã trở nên xa lạ. Trong người tôi như có một luồng sinh khí mới đang dồi sào trong huyết mạch tôi. những cánh đồng lúa đung đưa theo gió như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ. Ôi!cái không khí mùa đông sao mà dễ chịu. Ngày Tết,ai cũng có quần áo mới,những đúa bé đàu giỡn làm cho không khí ngày Tết trở nên rộn ràng hơn.Nhữn đứa bé háo hức,háo hức dc bố mẹ lì xì cho những phong bao màu đỏ,bên trong có những đồng tiền lì xì lấy hên.Chúng thay nhau đến chúc tết ông bà cha mẹ để dc lì xì cho những phong bao màu đỏ ấy.Đối với tất cả mọi người,ngày tết la ngày vui và hạnh phúc nhất.Vì trong ngày này,con cháu đều xum họp đông đủ.

Câu trả lời:

Sông nước Cà mau và Vượt thác đều miêu tả cảnh thiên nhiên sông nước. Nếu như trong Sông nước Cà mau, Đoàn Giỏi đã đưa người đọc tham quan cảnh sắc phong phú, tươi đẹp của vùng cực nam Tổ quốc thì với Vượt thác, Võ Quảng lại dẫn chúng ta ngược dòng sông Thu Bồn thuộc miền Trung bộ đến thượng nguồn lấy gỗ. Bức tranh phong cảnh sông nước và đôi bờ miền Trung này cũng không kém phần kì thú.

Miêu tả cảnh thiên nhiên ở hai vùng đất khác nhau, nhưng đều giống nhau ở nơi sông nước. Không biết “vô tình” hay “hữu ý” mà hai nhà văn đều chọn vị trí quan sát, từ điểm nhìn trên con thuyền theo cuộc hành trình để tả cảnh và tả người. Có lẽ không còn vị trí nào “tối ưu” hơn nữa. Cũng nhờ vị trí này mà các nhà văn đã hoàn chỉnh được bức tranh phong cảnh thiên nhiên mang những nét đặc sắc riêng của mình.

Cảnh Sông nước Cà mau lần lượt hiện lên theo con thuyền xuôi trên sông. Nhà văn đã nhập vai người kể chuyện, xưng “tôi” là chú bé An trong Đất rừng phương Nam miêu tả cảnh quan một vùng rộng lớn theo một trình tự tự nhiên, hợp lí. Chính vì vậy những hình ảnh trong bài văn được hiện lên trong khuôn hình một cuốn phim, lúc lướt nhanh, lúc chậm lại, có đoạn đặc tả cận cảnh, có chỗ lùi xa bao quát toàn cảnh.

Bức tranh đến với người đọc bằng ấn tượng về một vùng không gian rộng lớn mênh mang với sông, ngòi, kênh, rạch bủa giăng chi chít như mạng nhện, và tất cả đều được bao trùm trong màu xanh của trời của nước và tiếng rì rào bất tận của rừng cây, của sóng và của gió Trên trời thì xanh... không ngớt vọng về trong hơi gió muối.... Màu xanh đã là màu chủ đạo của bức tranh rất ấn tượng. Và để cho cảnh thêm sống động, in dấu riêng về vùng cực nam Tố quốc hoang dã, phong phú này, tác giả đã đưa vào bài những đoạn thuyết minh, giải thích thật thú vị về địa danh, về cách đặt tên các dòng sông, dòng kênh: rạch Mái Giầm, kênh Bọ Mắt, kênh Ba khía... Tên gọi không phải bằng những danh từ hoa mĩ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên. Điều này đã đẹm đến cho người đọc nhiều hiểu biết mới lạ và nhiều hứng thú.

Bức tranh còn được rạng rỡ và sống động hơn bởi sự ồn ào đông vui tấp nập, muôn màu muôn vẻ của chợ Năm Căn. Chợ mang nét đẹp riêng: vừa trù phú vừa độc đáo. Biện pháp liệt kê sử dụng rất hiệu quả, 12 chữ “những” trong đoạn văn đã gây ấn tượng về sự trù phú. Độc đáo hơn là chợ họp cả ban đêm ngay trên sông nước với những nhà bè như những phố nổi và những con thuyển bán hàng len lỏi mọi nơi, có thế mua mọi thứ mà không cần bước ra khỏi thuyền. Rồi sự đa dạng về màu sắc, trang phục, tiếng nói của người bán hàng thuộc nhiều dân tộc: người Hoa, Miên, người Chà Châu Giang... Rồi đến các món ăn đặc biệt trên thuyền mang hương vị cổ truyền của dân tộc xen với hương vị nước ngoài. Thật đậm đà và thú vị.!

Thiên nhiên trong Vượt thác có thể coi như là một cucín phim quay chậm vởi sự đổi thay của nó qua từng vùng khi con thuyền đi qua. Bức tranh thiên nhiên được thể hiện trong Vượt thác có những đường nét, âm thanh có phần mạnh mẽ, khẩn trương hơn bức tranh thiên nhiên trong Sông nước Cà mau bởi đây là cuộc vượt sông Thu Bồn với nhiều thác dữ chứ không phải cuộc du ngoạn xuôi dòng đến với chợ Năm Căn.

Cảnh thiên nhiên sông nước đã thay đổi theo con mắt nhìn cửa tác giả qua ba chặng. Con thuyền đi đến đâu thì cảnh hiện ra đến đấy. Đoạn ở vùng đồng bằng thì êm đềm, hiền hoà thơ mộng, thuyền bè tấp nập. Quang cảnh hai bên bờ thật rộng rãi, trù phú với những bãi dâu bạt ngàn, sắp đến đoạn có nhiều ghềnh thác thì cảnh vật hai bên bờ sông cũng thay đổi: vườn tược càng um tùm, những chòm cổ thụ đứng trầm ngâm lặng lẽ nhìn xuống nước, rồi núi cao đột ngột hiện ra như chắn ngay trước mặt. ở đoạn sông có nhiều thác dữ, tác giả chỉ tả một hình ảnh về dòng nước: Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn, nhưng sự hiểm trở và dữ dội của dòng sông vẫn hiện lên khá rõ qua việc miêu tả những động tác dũng mãnh của dượng Hương Thư và mọi người khi chống thuyền vượt thác, ở đoạn cuối dòng sông vẫn chảy quanh co giữa những núi cao, nhưng dường như đã bớt hiểm trở, và đột ngột mở ra một vùng ruộng đồng khá bằng phẳng như để chào đón con người sau cuộc vượt thác trở về với chiến thắng.

Nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đó lả sự thống nhất cao độ giữa tả và kể với hai biện pháp nghệ thuật - so sánh và nhân hoá. Nổi bật nhất, đặc sắc nhất là hình ảnh miêu tả về các chòm cổ thụ ở đoạn đầu và đoạn cuối của bài văn. Ở đoạn đầu, khi con thuyền đã qua đoạn sông êm ả, sắp đến khúc sông có nhiều ghềnh thác thì phong cảnh hai bên bờ cũng đổi khác: Những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước, vừa như báo trước một khúc sông dữ hiểm, vừa như mách bảo con người dồn nén sức mạnh chuẩn bị vượt thác. Còn ở đoạn cuối, hình ảnh những chòm cổ thụ lại hiện ra trên bờ khi con thuyền đã vượt qua nhiều thác dữ, thì lại mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vẫy tay hô đám con cháu tiến về phía trước. Hình ảnh so sánh ở đây vừa thích hợp với tương quan giữa những cây to với những bụi cây lúp xúp xung quanh lại vừa biểu hiện được tâm trạng hào hứng, phấn chấn và mạnh mẽ của con người vừa vượt qua được nhiều thác ghềnh nguy hiểm, tiếp tục đưa con thuyền tiến lên phía trước. Cùng là những chòm cây cố thụ, cùng là so sánh với con người nhưng ở mỗi cách ví đã biểu hiện thêm những tầng nghĩa mới, góp phần tô đậm cho bức tranh phong cảnh sông nước và đôi bờ miền Trung rất thú vị.

Văn chương hay thật! Càng học, càng đọc thì vốn hiếu biết về đất nước và con người càng phong phú. Chỉ có hai bài văn tả về cảnh sông nước đã có hai “bức tranh” thiên nhiên với vẻ đẹp đặc sắc riêng: một vùng miền Trung vừa thơ mộng vừa dữ dội, khác nhiều so với thiên nhiên vùng mũi Cà Mau rộng lớn, hùng vĩ đầy sức sống hoang dã. Và mỗi vùng đất, mỗi con sông trên lãnh thố nước ta đều là những bức tranh “tuyệt đẹp” đang vẫy gọi chúng ta.