Soạn văn 11

Hỏi đáp

Hướng dẫn soạn bài Vào phủ chúa Trịnh - trích Hướng dẫn soạn bài Tự tình (bài II) - Hồ Xuân Hương Hướng dẫn soạn bài Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến Hướng dẫn soạn bài Thương vợ - Tú Xương Hướng dẫn soạn bài Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến Hướng dẫn soạn bài Vịnh khoa thi Hương - Trần Tế Xương Hướng dẫn soạn bài Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ Hướng dẫn soạn bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Cao Bá Quát Hướng dẫn soạn bài Lẽ ghét thương - trích "Truyện Lục Vân Tiên" - Nguyễn Đình Chiểu Hướng dẫn soạn bài Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu Hướng dẫn soạn bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn - Chu Mạnh Trinh Hướng dẫn soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu Hướng dẫn soạn bài Chiếu cầu hiền - Ngô Thì Nhậm Hướng dẫn soạn bài Xin lập khoa luật - trích Hướng dẫn soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 Hướng dẫn soạn bài Hai đứa trẻ - Thạch Lam Hướng dẫn soạn bài Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân Hướng dẫn soạn bài Hạnh phúc một tang gia - trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng Hướng dẫn soạn bài Chí Phèo (tác giả) Hướng dẫn soạn Chí Phèo (tác phẩm) Hướng dẫn soạn bài Cha con nghĩa nặng - Hồ Biểu Chánh Hướng dẫn soạn bài Vi hành - Nguyễn Ái Quốc Hướng dẫn soạn bài Tinh thần thể dục - Nguyễn Công Hoan Hướng dẫn soạn bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - trích - Nguyễn Huy Tưởng Hướng dẫn soạn bài Tình yêu và thù hận - trích “ Rô- mê- ô và Giu- li- ét” – W. Sếch-xpia Hướng dẫn soạn bài Lưu biệt khi xuất dương Hướng dẫn soạn bài Hầu trời - Tản Đà Hướng dẫn soạn bài Vội vàng - Xuân Diệu Hướng dẫn soạn bài TRÀNG GIANG - Huy Cận Hướng dẫn soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Hướng dẫn soạn bài Chiều tối - Hồ Chí Minh Hướng dẫn soạn bài Lai Tân Hướng dẫn soạn bài Tương tư Hướng dẫn soạn bài Chiều xuân Hướng dẫn soạn bài Từ ấy Hướng dẫn soạn bài Tôi yêu em Hướng dẫn soạn bài Bài thơ số 28 Hướng dẫn soạn bài Người trong bao Hướng dẫn soạn bài Người cầm quyền khôi phục uy quyền Hướng dẫn soạn Về luân lí xã hội ở nước ta Hướng dẫn soạn bài Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức Hướng dẫn soạn bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác Hướng dẫn soạn bài Một thời đại trong thi ca Hướng dẫn soạn Một số thế loại văn học: Kịch, nghị luận
Nhi Huỳnh
Xem chi tiết
Thảo Phương
6 tháng 10 2019 lúc 20:06
Sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi kỳ quặc, lập dị đến ngất ngưởng. Người ta cưỡi ngựa đi giao du thiên hạ thì ông cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa khiến cả chủ lẫn tớ đều ngất ngưởng. Đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo “một đôi dì". Đó là lối sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để ngạo đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại. Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ đã nói về mình, đánh giá chính mình. Giọng điệu tự thuật khẳng khái, đầy cá tính đã cho thấy ông rất thẳng thắn và có ý thức về cách sống của mình. Nguyễn Công Trứ hoàn toàn tự hào về những đóng góp cho xã hội, tự hào vì chính thái độ coi thường danh lợi, coi thường phú quý, công danh của mình.
Bích Hoàn
Xem chi tiết
Dung Hoàng
Xem chi tiết
Văn Trung
Xem chi tiết
Cầm Đức Anh
26 tháng 9 2017 lúc 20:59

Vì chí lớn của lẽ làm trai,ông tự để cao vai trò của mình trong cõi trời đất'' Không việc gì không phải phận sự của ta''.KHoe tài năng hơn người
giỏi văn chương(thủ khoa) tài quân sự(thao lược)
ý nói văn võ song toàn
khoe danh vị xã hội hơn người:tham tán,tổng đốc,đại tướng,phủ doãn thừa thiên,...
thể hiện một ý thức rõ nét trang trọng về tài năng và địa vị bản thân
vì Nguyễn Công Trứ đang muốn chơi ngông với thiên hạ dựa trên tài năng và sự nghiệp bản thân.Khoe hoang chỉ là cái vỏ để giấu bên trong cái tôi về ý thức tài năng

thanh hoàn Lê
Xem chi tiết
Kuroba Kaito
23 tháng 10 2017 lúc 19:39

Đó là “một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh”, chú bé mặc “chiếc áo vải dù đen dài”, chú cảm thấy trang trọng và đứng đắn. Lòng chú tưng bừng rộn rã khi được mẹ hiền âu yếm nắm tay dẫn đi trên con đường làng quen thuộc dài và hẹp. Chú xúc động vô cùng, cảm thấy bỡ ngỡ và lạ lùng như con đường ấy chú chưa từng đặt chân đến. Mọi cảnh vật xung quanh thay đổi theo tâm trạng chú bé vì chính lòng tôi có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.

Chú bâng khuâng tự hào khi thấy mình đã lớn khôn, không còn lêu lổng đi thả diều, ra đồng nô đùa như thằng Sơn, thằng Quý nữa. Chú thèm cảnh mấy cậu học trò bằng tuổi mình áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao cho nhau sách vở. Chỉ cầm hai quyển vở mới, dù tay ghì thật chặt mà chú vẫn cảm thấy nặng, một quyển vở rơi khỏi đôi tay bỡ ngỡ. Nhìn thấy mấy cậu ôm sách vở mới lại còn kèm cả bút thước nữa, chú ngây thơ nghĩ chắc chỉ có người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ ấy của cậu bé đã thoáng qua trong tâm trí một cách nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.

Khi đứng trước ngôi trường, chú bé càng hồi hộp và bỡ ngỡ. Chú ngạc nhiên trước cảnh đông vui trong sân trường. Ai cũng quần áo sạch sẽ, gương mặt tươi vui, sáng sủa. Chú đã từng đi bẫy chim quyên với thằng Minh, và ghé lại trường một lần, đi quanh các lớp, cảm thấy trường xa lạ, cao ráo và sạch sẽ hơn các trường trong làng. Buổi tựu trường hôm nay chú cảm thấy trường Mĩ Lí của mình vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa Ấp. Đứng giữa sân trường rộng, chú bé đâm ra lo sợ vẩn vơ. Đó là tâm trạng bồi hồi, bỡ ngỡ rất thực, rất điển hình đối với tuổi thơ trong lần đầu tiên cắp sách đến trường.

Chú bé cũng như nhiều cậu học trò khác, bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa và đi từng bước nhẹ. Tất cả đều như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ.

Chú cảm thấy lòng mình vô cùng hồi hộp khi hồi trống trường vang lên, cảm thấy mình bơ vơ, vụng về, lúng túng. Các học trò khác cũng vì hồi hộp mà run run theo nhịp bước rộn ràng trong các láp. Lúc nghe ông Đốc học đọc tên từng người, chú bé xúc động, hồi hộp đến độ quả tim như ngừng đập, giật mình lúng túng, chú quên cả mẹ đứng sau mình. Nghe ông Đốc học dặn dò, không em nào dám trả lời; trước cái nhìn của mọi người, chú bé cũng như các học trò khác thêm lúng túng. Nhiều học trò mới ôm mặt khóc, chú bé cũng dúi đầu vào lòng mẹ mà nức nở theo. Mặc dù lúc ấy được bàn tay quen nhẹ của mẹ hiền vuốt mái tóc cho, nhưng chú vẫn cảm thấy cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết khi xếp hàng đi vào lớp: “Trong thời thơ ấu, tôi chưa lần nào thấy xa mẹ tôi như lần này”.

Cảm xúc hồi hộp, bỡ ngỡ dâng lên man mác trong lòng khi chú bé vào lớp học, cảm thấy một mùi hương lạ xông lên. Chú thấy lạ lạ và hay hay khi mắt hướng về những tấm hình treo trên tường. Chú nhìn bàn ghế rồi coi đó là vật riêng của mình, nhìn người bạn tí hon ngồi bên cạnh không cảm thấy xa lạ mà quyến luyến tự nhiên. Có lúc chú đưa mắt thèm thuồng một cánh chim, chú vòng tay lên bàn lẩm nhẩm đánh vần bài viết tập “tôi đi học”. Tiếng phấn của thầy giáo đã đưa cậu bé trở về với thực tại.

Thanh Tịnh đã rất khéo léo khi diễn tả những kỉ niệm của buổi đầu tiên đến lớp của nhân vật tôi, qua đó diễn tả tâm trạng và cảm giác bỡ ngỡ khi lần đầu tiên được cắp sách đến trường. Cảm giác của nhân vật diễn biến theo trình tự thời gian và không gian, lúc đầu là buổi sớm mai mẹ dắt đi trên con đường làng, sau đó là lúc đứng giữa sân trường, một hồi trống vang lên, nghe ông Đốc học đọc tên và dặn dò, cuối cùng là khi thầy giáo trẻ đưa vào lớp.

Kỉ niệm của ngày tựu trường đầu tiên rất sâu sắc và đẹp đẽ, chính vì thế hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường đầu tiên.

Huệ Kim Trần
Xem chi tiết
Vũ Đức Hoàng
Xem chi tiết
Kuroba Kaito
28 tháng 2 2018 lúc 19:45

Không chỉ vậy, giữa ca dao và thơ ca bác học cũng có những giây phút gặp gỡ nhau về quan niệm, về cách nhìn những vấn đề trong đời sống. Thật vậy, ta có thể cảm nhận điều đó qua sự tương đồng về cảm xúc giữa những câu hát than thân trong chương trình Ngữ văn 7 và bài thơ Bánh troi nước của Hồ Xuân Hương.
"Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương mượn hình ảnh viên bánh trôi để nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Số phận người phụ nữ trong xã hội đương thời cũng là một đề tài quan trọng của ca dao tục ngữ và "Bà Chúa thơ Nôm" đã học ở dân gian cách biểu đạt tư tưởng khá độc đáo. Điều đầu tiên để nhận thấy là nét tương đồng trong việc sử dụng cách mở đầu tác phẩm bằng cụm từ “Thân em...". Ca dao có nhiều câu:
Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Và “Bánh trôi nước” cũng vậy: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Sử dụng từ Thân em... để mượn lời người phụ nữ tự nói về thân phận mình, tác giả dân gian và nữ sĩ Xuân Hương đều muốn nói lên cái bé nhỏ, bẽ bàng, cô độc của người phụ nữ trong xã hội xưa. Hai từ “Thân em..." mang ý nghĩa "thân phận của em" và cũng có thể là "tấm thân của em", hai từ ấy vang lên đầy hờn tủi, đầy xót xa.
Không chỉ vậy, cùng hướng ngòi bút về người phụ nữ, dân gian và Hồ Xuân Hương đều thấy được vẻ đẹp sáng ngời trong dáng dấp bên ngoài và những đức tính tốt đẹp bên trong của người phụ nữ. Ca dao ngợi ca họ là những "dải lụa đào" mềm mại, thanh nhã; là giếng khơi mát lành, trong trẻo; là “hạt mưa" rào giữa cơn khát của nhân gian... Còn "Bánh trôi nước" thì vô cùng trân trọng cái vẻ đẹp "vừa trắng lại vừa tròn" rất mực xinh xẻo, đáng yêu của họ. Không chỉ vậy, họ còn là người có công lao sánh ngang tầm non nước "Bảy nổi ba chìm với nước non". Đặc biệt, dẫu cuộc đời khó khăn, nhọc nhằn họ vẫn mang "tấm lòng son" chung thủy.
Người phụ nữ trong xã hội xưa quả thực rất vẹn toàn về dung nhan và phẩm hạnh.
Tuy nhiên, nhắc đến người phụ nữ, sau những hình ảnh rất đẹp đẽ ngợi ca họ, ca dao lại ngậm ngùi nhắc đến thân phận bọt bèo, bé nhỏ của họ giữa cuộc đời. Họ chỉ là “hạt mưa sa”, là "giếng giữa đàng", là dải lụa đào giữa chợ .. Không chỉ bé mọn mà họ còn không được tự chủ số phận của mình. Cuộc sống của họ là phần dành cho người khác: "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Ta cũng gặp tiếng thở dài ấy trong bài thơ của Hồ Xuân Hương:
"Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn"
Đời người phụ nữ vốn đã nhọc nhằn với bao việc bếp núc, chợ búa, con cái,... để mưu sinh, để tồn tại. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” dùng để diễn tả sự long đong, lận đận ấy. Nhưng xót thương nhất là họ không có quyền quyết định số phận mình. May hay rủi, hạnh phúc hay bất hạnh đều là do người khác: “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”.
Vậy là, dù thuộc hai dòng văn học khác nhau, chọn những hình thức thể hiện khác nhau song giữa những bài ca dao và bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương đều có sự tương đồng về cảm xúc khi cảm nhận về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ: đó là những người đẹp người đẹp nết nhưng số phận lại vô cùng mong manh, bé nhỏ.
Hình ảnh người phụ nữ hiện lên qua chùm ca dao “Thân em...” và bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương là một biểu hiện quan trọng của tinh thần nhân dạo trong văn học Việt Nam.

Nguyễn Trà Giang
Xem chi tiết
Chí Nguyễn Đức
Xem chi tiết
Đạt Trần
25 tháng 4 2018 lúc 21:53

1:

- Giai đoạn thứ nhất (từ đầu TK XX đến khoảng năm 1920), thành tựu chủ yếu của văn học là thơ của các chiến sĩ cách mạng, tiêu biểu là Phan Bội Châu. Trong sáng tác của Phan Bội Châu cũng như nhiều cây bút Hán học yêu nước và cách mạng khác, nội dung tư tưởng đã khác với thơ ca thế kỉ XIX, nhưng về nghệ thuật vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại, các ông vẫn viết theo thi pháp của thơ trung đại. Điều này thể hiện rõ nhất trong Xuất dương lưu biệtcủa Phan Bội Châu.

- Giai đoạn thứ hai (từ 1920 đến 1930), công cuộc hiện đại hóa văn học đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Văn học giai đoạn này đã đổi mới, có tính hiện đại, nhưng những yếu tố của thi pháp văn học trung đại vẫn tồn tại khá phổ biến, nhất là trong sáng tác thơ. Bài Hầu trời của Tản Đà thể hiện rõ tính chất trên.

- Giai đoạn thứ 3 (từ khoảng 1930 đến 1945), nền văn học nước nhà đã hoàn tất quá trình hiện đại hóa với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại. Phong trào Thơ mới được xem là "một cuộc cách mạng thơ ca" (Hoài Thanh). Bài Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng Giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính, ... là những bài thơ rất tiêu biểu, thể hiện rất rõ những đặc trưng của Thơ mới.

Đạt Trần
26 tháng 4 2018 lúc 21:52

t so sánh Từ ấy với chiều tối thôi

2)

d1. Điểm tương đồng: cả hai bài thơ đều tập trung khắc họa hình tượng người chiến sĩ cách mạng, những người con ưu tú nhất của lịch sử dân tộc có tâm hồn cao đẹp, có lí tưởng sống nhân đạo, chất thi sĩ và chiến sĩ hoà quyện trong tâm hồn, lí tưởng của họ.

d 2. Điểm khác biệt:

– Ở “Chiều tối” là vẻ đẹp của người chiến sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống, một hồn thơ luôn hướng về sự sống và ánh sáng ở những thời điểm thử thách gay go nhất trên hành trình cách mạng. Vẻ đẹp tâm hồn con người được thể hiện qua bút pháp gợi tả với những hình ảnh đậm màu sắc cổ điển.

– Còn ở “Từ ấy”, đó là người chiến sĩ có tình yêu mãnh liệt với ý tưởng, có lẽ sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh, dâng hiến vì cuộc đấu tranh của dân tộc, giống nòi. Nhân vật trữ tình được khắc hoạ trực tiếp bằng những hình thơ sôi nổi, trẻ trung, tươi mới.

Lam Phong
Xem chi tiết