Bài 22 : Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)

Nguyễn Hoàng Minh Đức
Xem chi tiết
Công Chúa Bong Bóng
24 tháng 5 2016 lúc 9:28

mình chọn A

Bình luận (0)
Phạm Đức Dâng
Xem chi tiết
Công Chúa Bong Bóng
24 tháng 5 2016 lúc 9:27

mình chọn C

chúc bn học tốtthanghoa

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Lan Hương
24 tháng 5 2016 lúc 10:00

Ý nghĩa lớn nhất của chiến dịch Tây Nguyên là:Chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước sang giai đoạn mới :Từ tiến công chiến lược phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam

Bình luận (0)
nguyễn thị bình
Xem chi tiết
qwerty
19 tháng 6 2016 lúc 8:59

Tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại, Mĩ âm mưu phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ của nhân dân ta ở hai miền đất nước.

Ngày 14-12-1972, gần hai tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị-ngoại giao mới. Níchxơn phê chuẩn kế hoạc mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố trong 12 ngày đêm liên tục, bắt đầu từ tối 18 đến hết ngày 29-12-1972, nhằm giành một thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta kí một hiệp định có lợi cho Mĩ.

Quân dân miền Bắc đã đánh trả không quân Mĩ những đòn đích đáng, bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F111), bắt sống 43 phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của chúng. Thắng lợi này được coi như trận “Điện Biên Phủ trên không”.

Tính chung trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ ngày 6-4-1972) đến ngày 15-1-1973), miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay Mĩ (trong đó có 61 máy bay B52 và 10 máy bay F111), bắn chìm 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ.

“Điện Biên Phủ trên không” là trận thắng quyết định của ta, buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc (15-1-1973) và kí Hiệp ước Pari về chấm dứt chiến tranhh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973).

Trong thời gian Mĩ ngừng ném bom sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và cả trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai, miền Bắc vẫn bảo đảm tiếp tục nhận hàng viện trợ từ bên ngoài, chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam và cho cả chiến trường Lào, Campuchia.

Trong 3 năm (1969-1971), hàng chục vạn thanh niên miền Bắc được gọi là nhập ngũ, có 60% trong số đó lên đường bổ sung cho các chiến trường miền Nam, Lào, Camphuchia; khối lượng vật chất đưa vào các chiến trường tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước đó.Năm 1972, miền bắc đã động viên hơn 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đưa vào chiến trường nhiều đơn vị bộ đội được huấn luyện và trang bị đầy đủ, cùng với khối lượng vật chất tăng gấp 1,7 lần so với năm 1971.

Bình luận (0)
trương ngọc anh
Xem chi tiết
Lê Thị Hương Giang
Xem chi tiết
thanh thủy
Xem chi tiết
Bùi Vũ Phương Nhi
Xem chi tiết
Bùi Vũ Phương Nhi
Xem chi tiết
Phúc
16 tháng 4 2020 lúc 21:13

Để phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân trong lần thứ nhất (1965-1968), Mỹ đã tạo ra cái cớ là gì?

A. Dựng lên "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ"

Bình luận (0)
Bùi Vũ Phương Nhi
Xem chi tiết
Thảo Phương
16 tháng 4 2020 lúc 21:36

Quy mô của chiến lược VN hóa chiến tranh và Đông Dương háo chiến tranh diễn ra ở đâu?

A. Miền Nam Việt Nam

B. Cả nước Việt Nam

C. Ba nước Đông Dương

D. Chủ yếu diễn ra ở miền Nam Việt Nam

Bình luận (0)
Bùi Vũ Phương Nhi
Xem chi tiết
Thảo Phương
16 tháng 4 2020 lúc 21:37

Thủ đoạn nguy hiểm nhất của Mỹ trog chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" là?

A. Sử dụng các chiến thuật mới " trực thăng vận", " thiết xạ vận"

B. Tăng cường xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn

C. Tiến hành các hoạt động phá hoại miền Bắc, phong tỏa biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương

D. Tiến hành dồn dân, lập " ấp chiến lược"

Bình luận (0)