- Nhà văn đã dùng ngôi kể thứ nhất để kể lại toàn bộ sự việc, hóa thân thành người chứng kiến toàn bộ câu chuyện
- Tác dụng:
+ Ngôi kể thứ ba cho phép tác giả có cái nhìn chân thực và toàn diện về các sự kiện và nhân vật trong câu chuyện, đối với đoạn trích, ngôi kể này đã khắc họa lên sự thối nát của xã hội Đương thời thông qua các nhân vật. Đó là sự đểu cáng của Xuân, sự hèn nhát của các quan chứng nhà nước. Điều này giúp độc giả có cái nhìn tổng quan, không bị giới hạn bởi suy nghĩ hay cảm xúc của một nhân vật cụ thể, đánh giá được hiện thực mà nhà văn muốn phơi bày.
+ Ngôi kể thứ ba mở rộng khả năng của tác giả để thay đổi góc nhìn và chuyển đổi giữa các nhân vật. Điều này giúp độc giả hiểu rõ hơn về nhiều ý kiến, tâm trạng và suy nghĩ của các nhân vật. Trong đoạn trích, nhà văn đã cho độc giả thấy được diễn biến tâm trạng bực tức của Vua Xiêm khi tuyển thủ của mình sắp thua, sự lo lắng hớt hải của quan chức nhà nước cho đến sự khó hiểu của ông Văn Minh, tất cả đều được khắc họa rõ nét.
- Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng điểm nhìn toàn tri để diễn tả lại sự việc, đó là điểm nhìn khi người kể chuyện dùng ngôi thứ ba để kể nhưng họ biết nhiều hơn nhân vật, biết tất cả mọi điều.
- Tác dụng:
+ Việc sử dụng điểm nhìn toàn tri cho phép tác giả mô tả và đánh giá hiện thực từ nhiều góc độ từ đó phê phán và chỉ ra những vấn đề xã hội xuất hiện trong xã hội đương thời. Trong thời kì này “Cũ mới tranh nhau”, “Á - Âu xáo trộn” khiến cuộc sống lúc bấy giờ giống như một mớ hỗn độn tạp nham mà tác giả cho rằng đó là “cái xã hội đen tối, thối nát”. Điểm nhìn toàn tri sẽ giúp nhà văn vạch trần những mảng tối trong hiện thực đồng thời thể hiện sự khinh bỉ đối với xã hội lúc bấy giờ.
+ Điểm nhìn toàn tri giúp tác giả tránh được sự thiên lệch và chủ quan trong việc diễn đạt ý kiến. Điều này tạo ra một cái nhìn khách quan và đồng thời giúp độc giả tự tìm hiểu và đánh giá về hiện thực