Nguvễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ XVI, vốn là học trò giỏi cùa Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ, Truyền kì mạn lục chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
Chuvện người con gái Nam Xương trích trong Truyền kì mạn lục ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.
1.Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh “có tư dung tốt đẹp", tính tình “thùy mị nết na". Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất. Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm, Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất.Phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng, ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu", chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về “được hai chữ bình yên".
2. Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa, cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cái bóng” từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh ninh vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được". Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính chồng và con - những người thương yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng... Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời “ngọc Mị Nương”, toả hương "cỏ Ngu mĩ”.
Vũ Nương tuy không phải “làm mồi cho tôm cá”, được các nàng tiên trong thủy cung cùa Linh Phi cứu thoát. Thế nhưng, hạnh phúc cùa nàng ở trần thế bị tan vỡ, “trâm gãy bình rơi”. Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn lớn nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó, đêm ngày “nghi ngút đầu ghềnh tọả khói hương” (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người. Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu sắc.
3.Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người đem biếu con rùa xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn; Phan Lang gặp người làng là Vũ Nương trong bữa tiệc nơi cung nước; Vũ Nương gởi đôi hoa vàng về cho chồng. Trương Sinh lập đàn trên bến Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện v.v...
Chi tiết Trương Sinh gọi vợ, rồi chỉ nghe tiếng nói ở giữa sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa"-đó là một chi tiết, một câu nói vô cùng xót xa, đau đớn. Hạnh phúc bị tan vỡ khó mà hàn gắn được vì hai cõi âm-dương là một khoảng trống vắng mênh mông, mù mịt. Trương Sinh ân hận vì mình nông nổi, vũ phu mà vợ chết oan, bé Đản mãi mãi mồ côi mẹ... Qua đó, ta thấy đằng sau cái vỏ hoang đường, câu chuyện về cái chết của Vũ Nương thấm đẫm tình cảm nhân đạo.
Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi tiếp con đường của thầy mình: treo ấn từ quan, lui về quê nhà “đóng cửa, viết sách”. Ông là nhà văn giàu tình thương yêu con người, trân trọng nền văn hoá dân tộc.
Truyền kì mạn lục là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên cổ kỳ bút". Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Chuyện người con gái Nam Xương tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ XVI, nêu bật thân phận và hạnh phúc người phụ nữ trong bi kịch gia đình.
Gần 500 năm sau, Chuyện người con gái Nam Xương mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm cùa người vợ, người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ “Lại bài viếng Vũ Thị” của vua Lê Thánh Tông:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy
Khá trách chàng Trương khéo phủ phàng”.
Gợi ý
-Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và màu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới...
-Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến...
-Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian .
-Trong 20 truyện, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người... Giá trị lớn của Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó
Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ, sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời Tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi , dịch ra chữ Nôm, và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân, đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút".
Tác phẩm gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục, hình như Nguyễn Dữ muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Tuy nhiên, cũng theo Bùi Duy Tân, căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán.
Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục.
Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp.
Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật...
Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới…
Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến…
Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian.
Trong 20 truyện, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người... Giá trị lớn của Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó.
Văn hóa của dân tộc ta bị ảnh hưởng rất nhiều từ nền Nho học của Trung Quốc. Vậy nên văn học thời kì trung đại thường mang dấu ấn khá đậm nét của văn học Trung Hoa. Văn học thời kì này thường mang chút yếu tố kì ảo, huyền bí. Trong các tác phẩm, tác giả nổi tiếng ở thời kì này, ta không thể không kể đến Nguyễn Dữ cùng "Truyền kì mạn lục" của ông. Tập truyện này đã thể hiện rõ tư tưởng cũng như tinh thần sống của Nguyễn Dữ, đặc biệt là qua tác phẩm "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên".
Nói về Nguyễn Dữ, người ta thường nhắc về một thi sĩ ở ẩn với những hiểu biết sâu rộng về cuộc đời. Ông sống vào thế kỉ XVI, hiện thời chưa xác định rõ được năm sinh năm mất, chỉ biết ông sống ở thời Hậu Lê. Quê quán của ông thuộc xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Tương truyền, ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là người có tài cao, trí lớn, học rộng hiểu nhiều, đã từng đỗ đạt và làm quan dưới triều Lê. Thế nhưng, nội chiến phân tranh liên miên giữa nhà Mạc, Lê, Trịnh đã khiến ông chán nản. Vậy nên, chỉ sau một năm làm quan, ông đã cáo quan về ở ẩn cùng mẹ già và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời khác.
Cuộc đời làm quan của ông tuy ngắn ngủi, nhưng với tầm hiểu biết của mình, ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm mang đầy tư tưởng lớn lao. Ông viết sách rất nhiều vào những năm sau khi cáo quan, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất của ông chính là "Truyền kì mạn lục". Tác phẩm đồ sộ với tư tưởng lớn này của ông đã giúp ông ghi lại dấu ấn của mình vào nền thi ca trung đại Việt Nam.
Nói về tác phẩm "truyền kì mạn lục" có nhiều ý kiến, nhưng đa số đều cho rằng đó là một "thiên cổ kì bút" của tác giả Nguyễn Dữ mà qua đó ta thấy được quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
"Truyền kì mạn lục" (ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền) là một tập truyện gồm hai mươi tác phẩm được viết bằng chữ Hán, được viết vào đầu thế kỉ XVI. Nếu như "truyền kì" chỉ là những áng văn xuôi trung đại ghi lại những câu chuyện mang đầy tính hoang đường, quỷ dị, nơi mà yếu tố tâm linh, con người giao thoa với nhau, thì ở "truyền kì mạn lục", Nguyễn Dữ đã phát triển áng văn này lên một tầm cao mới. Cốt truyện trong những câu chuỵện ở "Truyền kì mạn lục" vẫn là những câu chuyện tương truyền trong dân gian nhưng nó đã được Nguyễn Dữ khéo léo lồng vào trong đó hiện thực của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Những câu chuyện này thường lấy chủ đề là người phụ nữ yếu đuối hoặc là những người trí thức đương thời bất mãn với cuộc sống hiện tại. Tất cả họ muốn thoát ly khỏi sự đày ải để đến với một cuộc sống mới, tốt đẹp hơn.
Qua từng tác phẩm, chúng ta thấy được số phận nhỏ bé, hẩm hiu trong xã hội, những bi kịch tình yêu của những người phụ nữ khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc gia đình. Thế nhưng họ lại bị những thế lực tàn bạo, những lễ giáo nghiệt ngã xô đẩy vào bước đường cùng của xã hội. Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ cũng khai thác những nhân vật trí thức, có tâm huyết nhưng bất mãn với cuộc đời đồng thời cũng lồng vào trong đó tinh thần yêu nước, niềm tự hào văn hóa dân tộc, nhân tài đất Việt, ca ngợi lòng thủy chung, đạo đức và sự nhân hậu.
"Truyền kì mạn lục" cũng mang ý nghĩa hiện thực và nhân đạo rất rõ ràng. Hiện thực ở chỗ nó phản ánh thực tại của xã hội phong kiến đang dần đẩy con người vào trong những bước đường cùng đau khổ, vạch trần, phê phán những tệ trạng tồn tại trong đó. Còn ý nghĩa nhân đạo ở đây chính là tấm lòng thương cảm, đồng cảm sâu sắc của tác giả gửi đến thông qua từng lời nói của nhân vật, thương xót số phận con người trong xã hội cũ.
Nghệ thuật được Nguyễn Dữ sử dụng trong "Truyền kì mạn lục" là chất liệu văn xuôi, là loại truyện được ưa chuộng thời kì trung đại. Nhưng ở đây, Nguyễn Dữ đã khéo léo thêm vào đó yếu tố kì ảo kì diệu khiến người đọc vừa đọc vừa suy ngẫm để tìm ra ý nghĩa, tư tưởng, tình cảm mà tác giả gửi gắm qua từng chi tiết đó. Ông cũng đã tổng hòa trong các tác phẩm của mình các yếu tố như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, bố cục truyện từng lớp mở ra dần dần khiến cho tính cách nhân vật càng bộc lộ rõ ràng vào cuối truyện.
Tóm lại, Nguyễn Dữ đã dựng lên một "truyền kì mạn lục" xứng đáng là một "thiên cổ kì bút" trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong các tác phẩm xuất sắc nhất nằm trong "Truyền kì mạn lục", người ta thường nhắc tới "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên". Câu chuyện xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn, là một người ngay thẳng, chính trực nhưng nóng nảy. Khi chứng kiến một ngôi đền thờ Thổ công vốn là một Ngự sử đời Lý Nam Đế bị một hồn ma họ Thôi chiếm giữ, ông đã ra tay phóng hóa đốt đền. Nhưng tên tướng họ Thôi kia đã dâng sớ tấu bày với Diêm Vương, dọa chàng Tử Văn phải dựng lại đền cho hắn. Nhưng với tính tình ngay thẳng của mình, chàng đã cự tuyệt và bị bắt xuống Minh ti hỏi tội. Được Thổ công bày cách từ trước nên tại Minh Ti điện, chàng đã vạch trần tội danh của kẻ gian tà khiến hắn bị bắt, bỏ ngục Cửu U, còn chàng được trở lại dương gian. Thấy Tử Văn tính ngay thẳng, cương trực, Thổ công đã tiến cử chàng chức Phán sự đền Tản Viên, chàng vui vẻ nhận lời và "không bệnh mà mất". Sau này, chàng đi mây về gió, làm phận sự giúp ích cho đời.
Chỉ qua nhân vật Tử Văn, chúng ta thấy được tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm trong truyện. Bằng những lời giới thiệu về tên tuổi, tự, danh hiệu, tính tình,... con người Tử Văn hiện lên rõ ràng và phẩm chất của chàng càng được bộc lộ rõ qua hành động đốt đền. Hồn ma họ Thôi nổi lòng tà, thậm chí định qua mắt cả Diêm Vương. Thế nhưng, hắn vẫn bị vạch trần, bắt tội. Qua đây, có thể thấy rằng Nguyễn Dữ đang muốn nói rằng thời đại của ông với đầy rẫy những tệ phong, cái xấu, cái tà đang nổi lên ngày một nhiều. Thế nhưng cái tà sẽ không bao giờ thắng được chính, tức khắc sẽ bị tiêu diệt. Tên hộ Thôi đại diện cho cái xấu bị tiêu diệt còn chàng Tử Văn chính trực được thăng quan, tiếp tục giúp đời.
Đọc tác phẩm, ta cũng thấy được ý nghĩa hiện thực và nhân đạo mà Nguyễn Dữ muốn gửi gắm. Đó là hiện thực về một xã hội đang bị những điều xấu xa thao túng. Nhưng con người "kẻ sĩ" phải luôn có bản lĩnh, cương trực thì tất sẽ giành được chiến thắng. "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" cũng được viết theo lối văn xuôi kết hợp yếu tố kì ảo. Đồng thời nó cũng được kết hợp các biện pháp nghệ thuật khác, làm câu chuyện trở nên hấp dẫn, tình tiết câu chuyện công phu, tỉ mỉ, khắc họa rõ nét nhân vật.
Tóm lại, Nguyễn Dữ - con người tài năng, học rộng hiểu nhiều đã để lại cho đời một tác phẩm "thiên cổ kì bút" cực kì xuất sắc "truyền kì mạn lục" đặc biệt là "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên". Ông xứng đáng là một người học trò xuất sắc của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Dữ là một tác giả tài năng của văn học trung đại Việt Nam. Sống vào khoảng thế kỉ XVI, quê ở Thanh Miện, Hải Dương. Là người vốn chăm học và thông minh, ôm ấp mộng lớn từ nhỏ. Từng làm quan dưới thời Mạc và thời Lê nhưng do chán nản trước thời cuộc đảo điên, xã hội bất công trái ngang mà cuối cùng chọn cuộc sống ẩn dật tại Thanh Hoá. Ông để lại cho văn học nước nhà một tác phẩm xuất sắc và giàu giá trị đó là Truyện kì mạn lục.
Truyện được viết bằng chữ Hán gồm hai mươi truyện nhỏ, cuối mỗi tác phẩm có lời bình ghi nhận đánh giá sự kiện hoặc nhân vật. Truyện thông quá chuyện cỏ cây, ma quỷ hay thế giới thần tiên, huyền bí để kể chuyện đời thường. Thông qua đó phơi bày thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Một xã hội tồn tại đầy rẫy tệ nạn, ở đó vừa quan ăn chơi không chăm lo đến đời sống nhân dân, người người giả nhân giả nghĩa, nạn cướp bóc, dối trá, ăn hối lộ hoành hành khắp nơi, mất trật tự thế sự điên đảo. Mỗi truyện đều mang một tư tưởng giàu giá trị, ý nghĩa nhân sinh, gửi gắm ước mơ của tác giả về một xã hội yên bình, sống trong sự công bằng, tình người được bảo bộc, ấm áp, sẻ chia. Truyền kì mạn lục còn lên án sự phân biết đối xử nam nữ thiếu công bằng. Đó là những người phụ nữ tài sắc nhưng chịu nhiều bất hạnh, khốn khổ trong cuộc đời. Họ chấp nhận thiệt thòi, thậm chí là hy sinh cả tính mạng để bảo vệ danh dự cho chính mình. Là tiếng nói cảm thông, xót thương cho số phận, ca ngợi trân trọng phẩm chất, tư dung tốt đẹp của những người phụ nữ đương thời. Truyện còn mang niềm tự hào về văn hoá dân tộc Việt Nam, đề cao lối sống nhân nghĩa thủy chung ân tình trong đời sống. Được xem là một "thiên cổ tùy bút" của Việt Nam.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục. Truyện viết về nhân vật Ngô Tử Văn là một người có tính tình khảng khái, thẳng thắn và có phần nóng nảy. Trong làng có một ngôi đền bị hồn ma quấy phá khiến chàng rất bất bình, thấy sự gian ác không chịu được nên châm lửa nhằm đốt đền. Bị hồn ma về dọa bắt đem đi nhưng nhờ sự trợ giúp của Thổ công, chàng đã nhận về phần thắng khi trước mặt Diêm Vương vạch trần kẻ lừa đảo, bịp bơm, xảo trá. Hồn ma bị xử tội đem vứt vào ngục Cửu U, Tử Văn trở về yên bình và được tiến cử giữ chức Phán Sự đền Tản Viên. Cuối truyện, tác giả đã thể hiện ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm của lời nhận xét: “Kẻ sĩ chỉ lo không.....cứng ra mềm”.
Truyện đề cao những con người giàu tinh thần dũng cảm, dám đứng lên đấu tranh chống lại bất công, đòi lại công bằng cho chính nghĩa. Dạy cho ta bài học về sự bản lĩnh trong cuộc sống, phải mạnh mẽ, cứng cỏi, giữ chính kiến đương đầu với khó khăn thử thách, chính nghĩa ắt sẽ thắng gian tà, xảo quyệt. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên cho thấy tài năng trong nghệ thuật của tác giả trong việc đưa người đọc đến với thế giớ li kì, huyền bí của ma quỷ thần tiên. Với những tình tiết vô cùng bất ngờ và khéo léo dẫn dắt tạo nên một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật hàm chứa tư tưởng lớn lao.