Tham khảo:
Dường như hầu hết mọi nhà thơ đều có thơ về trăng (ít nhất là một bài hoặc một lần trong thơ nhắc đến trăng). Hình tượng trăng đi vào thơ ca đã trở thành quen thuộc, trở thành cái Đẹp, cái cao thượng trong tâm hồn. Qua nghiên cứu thơ của Bác, chúng ta tìm thấy có ít nhất mười ba bài thơ (không kể Thư Trung thu gửi các cháu thiếu nhi) có trăng xuất hiện. Đó là những bài thơ trong tập Nhật ký trong tù như: Ngắm trăng, Trung thu, Giải đi sớm, Đêm lạnh, Đêm thu, Cảm tưởng đọc "Thiên gia thi" và những bài thơ làm trong thời kỳ kháng chiến p như: Chơi trăng, Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận, Đối trăng, Đi thuyền trên sông Đáy.
Trong thơ Người, chúng ta thấy sự xuất hiện của trăng thật đa dạng, sinh động. Hầu hết những bài thơ của Bác có hình ảnh trăng đều là những bài thơ hay.
Trăng có khi là bạn thơ, bạn đời của Bác:
"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"
(Ngắm trăng)
Ở đây, trăng và người thật đồng điệu, Rồi cũng là trăng ấy, nhưng với tâm trạng của người mất tự do, buồn cho niềm khát vọng chưa thành, Bác viết:
"Trăng gió đêm Thu gợn vẻ sầu
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng Thu"
(Trăng thu)
Bác coi trăng như là hình ảnh lý tưởng để vươn tới Lúc bị lính áp giải, tay chân bị trói, tưởng không còn để ý gì được đến ngoại cảnh, vậy mà bằng những cảm quan cực nhạy của tâm hồn nhà thơ, Bác vẫn có cái nhìn mới về trăng:
"Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn"
(Giải đi sớm)
Một đêm lạnh không ngủ được, Người thấy:
"Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh"
(Đêm lạnh)
Cảm nhận của Bác thật chuẩn xác, tuyệt vời! Ai đã từng thức nhìn khóm chuối đêm trăng đầm đìa sương lạnh cũng đều phải thừa nhận đó là một câu thơ tinh tế, thật mà rất gợi.
Một lần khác, Bác bỗng thấy:
"Trên trời trăng lướt giữa làn mây"
(Đêm thu)
Giữa bốn phía xà lim lạnh lẽo, Hồ Chí Minh thi sĩ chỉ biết làm bạn với trăng và mượn trăng để giãi bày tâm trạng, chia sẻ nỗi niềm. Trăng trong Nhật ký trong tù của Bác là biểu hiện của khát khao vươn tới tự do bay khắp nhân gian để tỏa sáng.
Với Bác, những năm tháng sống ở Việt Bắc là những năm tháng có nhiều kỷ niệm đẹp về trăng. Cảnh rừng Việt Bắc và Cảnh khuya (làm năm 1947) là hai bài thơ hay trong số những bài thơ ra đời ở thời điểm này:
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà "
(Cảnh khuya)
Bác và trăng quyện hòa vào nhau, hư mà thực. Bài thơ đẹp như một bức tranh, vừa giàu hình ảnh vừa giàu âm thanh, trong sáng và thanh cao vô cùng, tạo cho người đọc những cảm xúc thẩm mỹ dạt dào, sảng khoái.
Có một điều đặc biệt là ở bốn bài thơ trăng làm trong hai năm 1948, 1949, mặc dù đang chiến tranh song trăng ở trong thơ Bác vẫn tràn đầy thơ mộng.
Đó là vào dịp rằm tháng Giêng, trăng hiện lên lồng lộng. Rằm xuân, sông xuân và trời xuân lồng vào nhau đầy ắp thuyền trăng:
"Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền"
Đó là lúc trăng vấn vít, làm thi vị thêm "việc quân", mở ra cảm xúc bồi hồi trước tin thắng trận.
"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về."
(Tin thắng trận)
Hoặc trong bài Đối trăng:
"Ngoài sân trăng rọi cây sân
Ánh trăng nhích bóng cây gần trước song
Việc quân, việc nước bàn xong
Gối khuya ngon giấc bên song trăng dòm"
"Trăng rọi cây sân", "Ánh trăng nhích bóng cây", chữ của Bác thật đắt. Sự quan sát của Người thật tỷ mỉ, nét bút gợi nhiều liên tưởng.
Và đây nữa, Đi thuyền trên sông Đáy:
"Dòng sông lặng ngắt như tờ
Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo"
Giữa "Bốn bề khung cảnh vắng teo, chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan", Bác để cho trăng hiện ra thật động. Sao thì cứ muốn đưa thuyền chạy nhanh, mà thuyền thì cứ muốn đợi chờ trăng theo. Cái lô gích trong đời sống với lô gích trong hình tượng thơ bồi đắp cho nhau, nâng cao tưởng tượng của người đọc lên.
Qua các bài thơ trăng của Bác, chúng ta nhận thấy: Bác là người rất yêu thiên nhiên, nhất là trăng. Trăng trong thơ của Bác có những sắc thái mới gắn với nội dung quan điểm thẩm mỹ khoa học, cách mạng của Người. Trăng là một hình tượng có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và trong sự nghiệp sáng tác văn học của Người.
Thơ Bác đầy trâng – Thơ trong tù, thơ chiến khu… có nhiều bài, nhiều câu thơ nói về vầng trăng xinh đẹp và trữ tình.
Trước hết nói về trăng trong Nhật ký trong tù. Ngắm trăng là bài thơ tuyệt tác. Trong ngục tối, nhà thơ không có rượu, có hoa để thưởng trăng. Trăng như một người bạn thân từ phương trời xa, vượt qua song sắt nhà tù đến thăm Bác. Trăng được nhân hóa tuyệt đẹp: có ánh mắt và tâm hồn. Vượt lên mọi cơ cực của cảnh tù đày, Bác say sưa ngắm vầng trăng. Trăng với Bác lặng lẽ nhìn nhau, cảm động. Bài thơ ghi lại một tư thế ngắm trăng hiếm thấy: Một tâm hồn tha thiết yêu thiên nhiên, tạo vật, một phong thái ung dung tự tại của nhà thơ – chiến sĩ. Trăng hữu tình nên thơ. Trăng với người tù cảm thông chan hòa trong mối tình tri kỷ:
Người ngắm trăng soi ngoài của sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Ngắm trăng đã phản ánh tinh thần lạc quan và khát vọng sông hướng về ánh sáng, tự do của Bác trong cảnh tù đày.
Tiếp theo là những bài thơ về trăng chiến khu của Bác. Có gì đẹp hơn gió núi, trăng ngàn? Rằm thảng giêng một bài thơ trăng kỳ diệu. Hai câu đầu là cảnh trăng xuân sông nước.. Một màu xanh bao la bát ngát: sông xuân, nước xuân, trời xuân lung linh dưới vầng trăng đêm Nguyên tiêu. Ba chữ xuân trong nguyên tác là một gam màu nhẹ sáng và tươi mát.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Dịch thơ là:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Hai câu thơ cuối ghi lại công việc của Bác trong đêm rằm tháng Giêng: giữa nơi khói sóng của dòng sông, Bác bàn bạc việc quân để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nửa đêm, con thuyền chở đầy ánh trăng vàng quay về bến:
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Con thuyền của lãnh tụ trở thành con thuyền của thi nhân chở đầy ánh trăng vàng. Sự xuất hiện của vầng trăng cho ta thấy một hồn thơ tuyệt đẹp: Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, căng thẳng, bận rộn việc quân, việc nước, nhưng Bác vẫn ung dung, lạc quan, yêu đời. Nguyệt mãn thuyền (trăng đầy thuyền) là một hình tượng thơ cổ kính, mỹ lệ rất độc đáo.
Có vầng trăng bơi theo con thuyền của lãnh tụ trên dòng sông Đáy mênh mang giữa núi rừng chiến khu Việt Bắc: Sao đưa thuyền chạy, thuyền chở trăng theo (Đi thuyền trên sông Đáy). Có vầng trăng đến đòi thơ như bạn tri âm, cùng Bác chia vui tin thắng trận. Trăng xuất hiện thì chuông lầu đêm thu reo lên, tin vui thắng trận dồn dập báo về… Cái đẹp gắn liền với niềm vui. Trong cảnh tù đày, trăng đã đến với Bác thì trong máu lửa chiến tranh, trong niềm vui thắng trận, trăng cũng không thể nào vắng bóng?
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.
(Tin thắng trận – 1948)
Có vầng trăng thu dát vàng núi rừng đêm khuya, cổ thụ, ngàn hoa hiện lên dưới vầng trăng làm cho cảnh khuya đẹp như vẽ. Thi nhân thao thức ngắm vầng trăng, nghe tiếng suối chảy trong như tiếng hát xa, lòng bồi hồi, xúc động:
Tiêng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa;
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Thiếu nhi, lớp măng non của dân tộc không thể nào quên vầng trăng thu thuở ấy… Bác yêu thương các cháu cho nên khi ngắm trăng Trung thu, Bác lại nhớ các cháu gần xa. Tấm lòng của Bác như vầng trăng thu ngời sáng:
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng.
Có vầng trăng ước hẹn một ngày mai chiến thắng. Nước nhà độc lập, thanh bình, Bác thanh thản trở về cuộc sống bình dị:
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
(Cảnh rừng Việt Bắc)
Kể sao hết vầng trăng trong thơ Bác Hồ, bởi lẽ Thơ Bác đầy trăng.
Thơ Bác đầy trăng, trăng tròn, trăng sáng, trăng trên mọi nẻo đường Bác đã đi qua. Có vầng trăng trong cảnh tù đày. Có vầng trăng kháng chiến. Có vầng trăng thanh bình. Bác nói nhiều về trăng thu. Bác yêu thiên nhiên, sống lạc quan yêu đời cho nên tâm hồn Bác lúc nào cũng hướng về ánh sáng, về cái đẹp. Trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng, là bạn tri âm của tao nhân mặc khách. Bác là một nhà thơ yêu trăng.
Ca dao, dân ca, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… có nhiều bài tuyệt tác nói về trăng. Thơ Đường nổi bật nhất là thơ Lý Bạch, dào dạt ánh trăng.
Bác Hồ đã kế thừa tinh hoa thơ ca cổ để viết nên những bài thơ trăng kiệt tác.
Trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, của non xanh nước biếc. Bác yêu trăng, viết nhiều thơ về trăng vì Bác giàu lòng yêu thương con người. Trăng trong thơ Bác chiếu sáng một tấm lòng thiết tha, gắn bó đối với thiên nhiên tạo vật, đối với nhân dân và đất nước quê hương.
Trăng đã góp phần làm cho thơ Bác thêm đặc sắc. Thơ Bác đã vừa thực vừa mộng, vừa mang màu sắc cổ điển vừa mới mẻ hiện đại, đậm đà thi vị. Trăng đã góp phần tạo nên gương mặt, bản sắc và tính thẩm mỹ trong thơ Bác.
Cuộc đời không thể thiếu vầng tráng. Đọc thơ trăng của Bác Hồ, tâm hồn mỗi chúng ta thêm giàu có, trong sáng, biết hướng tới ngày mai, vươn tới ánh sáng mà đi lên phía trước. Chúng ta càng yều thêm cảnh trí non sông.
Yêu cái đẹp trong thơ trăng của Bác, cái đẹp trong thơ trăng cổ nhân, chúng ta học tập tình yêu nước, thương dân của Bác. Ước sao đất nước mãi mãi tỏa sáng vầng trăng thanh bình, trăng thu tròn và đẹp cho tuổi thơ, trăng đến với mọi người, mọi nhà trong ấm no, hạnh phúc.