Hướng dẫn soạn bài Thuế máu - trích

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Nguyễn Lê Xuân Trang

Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp của Nguyễn Trãi trong đoạn trích Nước Đại Việt ta

Lê Thị Hải
20 tháng 5 2020 lúc 9:33
TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI TS. Nguyễn Minh Hoàn Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Trong truyền tư tưởng của người Việt Nam, tư tưởng nhân nghĩa là một trong những tư tưởng cốt lõi phản ánh vào đó một hệ thống các quan điểm về triết lý nhân sinh, triết lý xã hội, triết lý chính trị, triết lý quân sự, triết lý ngoại giao,... Tư tưởng nhân nghĩa đạt đến một bước phát triển mới ấy đã được thể hiện trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Cũng chính tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã phát triển ấy từ truyền thống tư tưởng nhân nghĩa trong văn hoá Trung Hoa đã góp vào việc nâng tầm tư duy truyền thống của người Việt Nam hướng đến chủ nghĩa nhân đạo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi (1380–1442) được hình thành từ một hệ thống các quan điểm của triết lý nhân sinh, triết lý xã hội, triết lý chính trị, triết lý quân sự, triết lý ngoại giao,. . . và là tất cả những triết lý trong một thể thống nhất ấy lại được bao trùm bởi cả một vũ trụ quan ông. Như vậy, tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự thống nhất giữa đạo trời và đạo người thể hiện chung ở chủ nghĩa nhân đạo. Hệ thống các quan điểm trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là kết quả của sự kế thừa quan điểm triết học truyền thống phương Đông nói chung, của dân tộc nói riêng. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành một tư tưởng nhân nghĩa tiêu biểu nhất của truyền thống tư tưởng dân tộc, bởi nó chính là sự hội tụ những tư tưởng nhân nghĩa của dân tộc truyền lại, rồi tiếp tục lưu chảy trong truyền thống tư tưởng nhân nghĩa của người Việt Nam sau này. Tư tưởng nhân nghĩa ấy của Nguyễn Trãi đã được thể hiện trong một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Quân trung từ mệnh tập,Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí. Trước hết, tư tưởng nhân nghĩa vẫn luôn thể hiện tư tưởng nhân nghĩa truyền thống, bởi nhân nghĩa vẫn là cái gốc của đạo trời, nên "Bại nghĩa thương nhân, trời đất cơ hồ muốn dứt" (Bình Ngô đại cáo). Nhân nghĩa cũng vẫn là cái gốc của đạo người lãnh đạo, người cai trị dân, vì: "Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc"; cho nên đó cũng chính là cái gốc của sự ứng xử của người lãnh đạo, của bậc quân vương đối với người dân: "Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, viện công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu" (Lại thư trả lời Phương Chính). Mục đích "an dân" được thực ở người quân tử theo đạo trời để bảo vệ sự sống (an dân), rằng: "đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân" (Thư dụ hàng (các tướng sĩ) thành Bình Than). Phải chăng đây vẫn là sự thể hiện tư tưởng mà trong Kinh dịch, Hệ từ hạ đã viết (thiên địa chi đại đức viết sinh). Lòng nhân nghĩa đó trong tư tưởng của Nguyễn Trãi chính là sức mạnh bảo vệ quốc gia dân tộc, được thể hiện bởi vai trò của bậc trung quân ái quốc. Đây cũng là tư tưởng đã được thể hiện trước đó ở thời kỳ chống sự xâm lược của nhà Nguyên. Hịch tướng sĩ (Dụ chư tì tướng hịch văn) cũng nhấn mạnh: "Tự cổ các bậc nghĩa sĩ trung thần đã từng diệt thân để cứu nước" (Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi). Trong thực tiễn của lịch sử dân tộc Việt Nam, lúc tình huống càng nguy cấp trước sự xâm lược, thì càng là lúc mà lòng nhân nghĩa thể hiện được sức mạnh to lớn, và vẫn tất yếu giành được thắng lợi: "Chính lúc cờ nghĩa nổi lên, đương khi thế giặc mạnh" (nghĩa kỳ sơ khởi chi thời, chính tặc thế phương trương chi nhật, Bình Ngô đại cáo); "kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều". Lý do này cũng là ở sức mạnh của nhân nghĩa, vì "yếu" chỉ là kém hơn sức mạnh quân sự, nhưng mạnh hơn bởi sự hợp lực đức nghĩa của "kẻ nhân giả". Còn "ít" chỉ là nhỏ hơn về số người, nhưng mạnh hơn cũng bởi sự hợp lực sức mạnh lòng nhân của "kẻ nghĩa giả". Quả đúng là đức nhân và việc nghĩa là một sức mạnh: (cường nhi nghĩa); (đồng lực, độ đức; đồng đức, độ nghĩa); và (nhị nhân đồng tâm kỳ lợi đoạn kim). Nhưng tư tưởng nhân nghĩa truyền thống Việt Nam, còn là việc dùng sức mạnh nhân nghĩa để chống bạo tàn: "Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân làm biến đổi cường bạo" (Bình Ngô đại cáo). Sức mạnh nhân nghĩa được thực hiện bằn thu phục nhân tâm của kẻ xâm lược: "công tâm". Mặc dù đây là tư tưởng trước đó đã được nói đến ở thời Tam Quốc (tâm vi thượng, công thành vi hạ; tâm chiến vi thượng, binh chiến vi hạ). Nhưng tư tưởng "công tâm" mà Nguyễn Trãi nhấn mạnh đã được nâng thành tư tưởng có tầm chiến lược và được sử dụng như một nghệ thuật. Việc vận dụng quan điểm nhân nghĩa như một nghệ thuật trong tư tưởng của Nguyễn Trãi thể hiện ở chỗ nhân nghĩa vừa là phương tiện vừa là mục tiêu. Nhưng cũng chính vì là nghệ thuật dùng nhân nghĩa trong điều kiện thực tiễn lịch sử phải là sức mạnh được tập trung vào công cuộc giải phóng dân tộc, đó là: "dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội". Đặc biệt, trong hoàn cảnh đó phải thực hiện cả "quyền mưu làm gốc để trừ kẻ gian tà"; và "nhân nghĩa làm gốc để giữ vững bờ cõi" (Quyền mưu bản thị dụng trừ gian; nhân nghĩa duy trì quốc thế an). Cũng chính vì nhân nghĩa để thắng hung tàn, mà quyền mưu thì dùng trừ gian, do đó "quyền mưu" chính là nhân nghĩa trong thời kỳ chống xâm lược. Tư tưởng nhân nghĩa thể hiện theo tinh thần trên còn bao hàm cả sự khoan dung. Khi Nguyễn Trãi soạn Chiếu thư cho vua Thái tổ đã giải quyết tốt tình huống bang giao với phương Bắc ngay sau khi nước nhà giành độc lập: Lúc ấy, các Tướng sĩ và nhân dân ta, đều thâm thù sự tàn bạo của người Minh, nên đều mật khuyên Hoàng đế nhân dịp giết chết cả đi. nhưng ngài dụ rằng: "Việc phục thù trả oán, là tình thường của mọi người, nhưng không ưa giết người, là bản tâm của người nhân. Huống chi người ta đã hàng, mà mình lại giết chết, thì còn gì bất tường hơn nữa. Ví bằng giết đi cho hả giận một lúc, để gánh lấy tiếng xấu giết kẻ hàng mãi tới đời sau, chi bằng hãy cho sống ức vạn mạng người, để dứt mối chiến tranh tới muôn thuở, công việc sẽ chép vào sử sách, tiếng thơm sẽ truyền tới ngàn thu, há chẳng đẹp lắm ư?". Các bầy tôi đều bái phục độ lượng khoan hồng của Hoàng đế." Lấy việc thực hiện tinh thần nhân nghĩa thời kỳ này so với thời trước đó vào thời Trần thì tinh thần nhân nghĩa trên đây trong tư tưởng Nguyễn Trãi là đỉnh cao phát triển tư tưởng nghĩa. "Trong lịch sử đời Trần có vụ sau khi nhà Nguyên thất trận hai lần nên phải chịu hòa hiếu bang giao với nước ta. Vua Nhân Tôn liền sai quan đưa bọn tướng tá tù binh Mông Cổ về Tàu như Tích Lệ, Cơ Ngọc, Phàn Tiếp. Riêng tướng Mã Nhi là tên đã giết hại nhiều người Việt, để rửa hận cho nhân dân Việt nên vua mới dùng mưu của Trần Hưng Đạo đem ra giữa bể rồi sai người đánh đắm thuyền cho chết đuối. Về sau vua Dực Tôn (1829–1883) xem hồ sơ vụ này có phê bốn chữ "Bất nhân phi nghĩa". Tuy nhiên, mục tiêu cao nhất của việc thực hiện nhân nghĩa chính là để "an dân". Nhưng chưa hết, thực hiện phương tiện nhân nghĩa để thực hiện mục tiêu an dân đã tạo một nấc thang mới trong sự phát triển tư tưởng nhân nghĩa thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả, khi mà việc nhân nghĩa không phải chỉ tuyệt đối hoá ở mệnh trời, được thể thông qua người quân tử như trong tư tưởng truyền thống, mà ở Nguyễn Trãi thì: "việc nhân nghĩa cốt ở an dân", cần được hiểu rằng: cốt ở yên dân (yếu tại an dân) là nhân nghĩa xuất phát từ chính việc người thay cho mệnh trời, mà ở đây chính là dân lành? Xuất phát từ quan điểm đó là tư tưởng thể hiện lòng biết ơn dân: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày". Tất nhiên, lòng biết đã có trong tư tưởng Nho giáo: "Bách tính không đủ ăn thì vua đủ ăn sao được" (bá tính bất túc quân thục dữ túc, Luận Ngữ, Nhan Uyên), nhưng lòng biết ơn dân cũng là mục đích an dân, vì dân, lo cho dân, để rồi: "nơi thôn cùng xóm vắng không một tiếng hờn giận oán sầu". Ngay trong thời đại của mình vào thế kỷ XV, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã được thực tiễn trả lời những giá trị của nó, không dừng lại ở đó, cho đến nay những tư tưởng đó vẫn còn nguyên giá trị.

Các câu hỏi tương tự
Thời Ẩn
Xem chi tiết
Nông Thị Ngọc Huyền
Xem chi tiết
Trần Như Hiền
Xem chi tiết
Nguyễn Đức Anh
Xem chi tiết
Lê Hà Linh
Xem chi tiết
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Duy Saker Hy
Xem chi tiết
phan thi hoai nam
Xem chi tiết
Vũ Quang Huy
Xem chi tiết