Gợi ý một đoạn:mỗi dân tộc ,mỗi lãnh thổ có những gốc nhìn khác nhau về phong tục tập quán truyền thống nhưng tinh thần iu nước nồng nàn của ngưòi việc nam luôn là 1 nét đẹp đặc săc hiếm có ở các nước khác,từ xa xưa tinh thần ấy đã bộc lộ qua những anh hùng tiêu biểu còn động lại trong lịch sử như bà trưng ,bà triệu, trần hưng đạo.nhưng đó chỉ là những dấu vết trong chiến tranh còn h đây tinh thần ấy lại khắc họa rõ[/color] trong mỗi người con việt.những bác nông dân chân lắm tay bùn,vất vã mồ hôi ,nhưng trong con ngưòi họ vẫn chất phác,thật thà làm ra hạt gạo cung cấp cho đời sống công nghiệp.hay những trẻ thơ mầm non của đất nước chúng cố học ,hoc thật ngoan học giỏi để sau này mong muốn giúp ích cho đất nước,củng cố lại nước nhà.hay những anh hải quân ngày đêm canh giữ biển đảo,canh giữ bình yên cho tổ quốc,hay những bác sĩ lun mún chữa bện cho tất cả mọi ngưòi từ vùng sâu vùng xa vùng hải đảo ,yêu thương mọi ngưòi đó cùng cũng là 1 phần của tinh thần iu nước.hay những ngưòi mẹ việt nam vì đất nước tưoi đẹp này họ cũng phải hi sinh đứa con đứt ruột chín tháng mưòi ngày cưu mang ,những đứa con ấy ra chiến trường chiến dâu kiên cường bảo về tổ quốc,đánh tan bọn xâm lăng, tinh thần yêu nước:| cũng bộc lộ trong tim họtinh thần yêu nước như cây cầu nối liền hàng triệu trái tim việt.đất nước thay đổi mọi thứ hiện đại khác xa xưa nhưng tinh thần iu nước trong mỗi ngưòi vần không thay đổi ,lòng iu nước là 1 thứ thiên liêng cao cả quý như lòng mẹ ,nó vĩnh viến tồn tai và không sao thay đổi được .nói tóm lại tinh thần yêu nước là ý chí quyết tâm xây dựng tổ quốc tưoi đẹp.nơi nào có ngưòi việt nam nơi đó hiện hữu lên tinh thần yêu nước trường tồn vĩnh cữu
Tham khảo :
Cũng như bao truyền thống khác, tinh thần yêu nước là một nét đẹp trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tình yêu nước có ở trong máu của mỗi con người Việt Nam, kết thành sức mạnh giúp dân tộc mãi mãi trường tồn và vững bền.
Trước tiên, ta cần hiểu tinh thần yêu nước là gì? Tinh thần yêu nước là tình cảm sâu nặng, thiết tha đối với quê hương đất nước. Tình yêu nước xuyên suốt chiều dài dân tộc và đi sâu vào trong từng ý nghĩ, hành động của mỗi con người. Mỗi khi đất nước đứng trước họa xâm lăng, tình yêu nước thể hiện trong khát vọng đứng lên đấu tranh giành độc lập, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc, yên bình, ấm no. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đó là Hai Bà Trưng, Bà Triệu phận là nữ nhi nhưng dám xông pha ra trận. Đó là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn với chiến công ba lần đánh đuổi giặc Mông Nguyên ra khỏi bờ cõi nước nhà. Gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ nức tiếng năm châu, chấn động toàn cầu. Nghe lời kêu gọi của Bác Hồ, nhân dân ta đã cùng đứng lên đấu tranh, nguyện hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của dân tộc. Biết bao những con người vô danh đã ngã xuống, máu hòa cùng với non sông để tạc lên dáng hình xứ sở của Tổ quốc thân yêu:
"Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông..."
Tình yêu tổ quốc chính là chất keo bền chặt làm nên sự đoàn kết của nhân dân ta, giúp dân ta có được sức mạnh phi thường để đi qua mọi khó khăn bão táp của thời đại, hướng về một tương lai tươi sáng, một cuộc sống hạnh phúc không còn bóng dáng quân thù.
Tình yêu Tổ quốc còn thể hiện rõ nét qua sự đoàn kết, gắn bó, yêu thương giữa những người cùng trong một nước. Yêu Tổ quốc nghĩa là yêu đồng bào. Từ xưa ông cha ta đã dạy: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải yêu nhau cùng”. Huống chi chúng ta còn đều là con lạc cháu rồng, cùng bọc trăm trứng do mẹ Âu Cơ sinh ra, vậy thì có lí gì lại không yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau? Đạo lí lá lành đùm lá rách, bầu ơi thương lấy bí cùng đã thấm đượm trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam. Cứ mỗi mùa bão lũ đến, khúc ruột miền Trung lại quặn thắt trong đau đớn. Khi ấy, cả triệu trái tim trong nước lại cùng chung một nhịp đập, cùng hướng về miền Trung thân yêu, giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần để phần nào xoa dịu nỗi đau đớn của họ. Và còn rất nhiều những chương trình, những tổ chức từ thiện được lập ra đẻ giúp đỡ những số phận có hoàn cảnh bất hạnh: Cặp lá yêu thương, Trái tim cho em. Đó là những hành động, việc làm xuất phát từ tình yêu nước, yêu người được thể hiện trong thời bình. Yêu nước còn là góp phần dựng xây quê hương đất nước giàu đẹp. Góp đá xây Trường Sa là một phong trào ý nghĩa như thế. Phong trào đã lay động cả triệu trái tim trong cả nước, những người tham gia có đến cả cô bán ve chai, những em nhỏ nhịn ăn sáng, anh thanh niên để dành phần tiền tăng ca hoặc cụ già trước khi quy tiên đã dặn con cháu để dành tiền phúng viếng “làm việc nước” trước. Tình yêu nước không chỉ mạnh mẽ trong thời chiến mà ngay cả trong thời bình, nó cũng không kém phần nồng nàn và sâu sắc.
I- li- a Ê- ren- bua từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Yêu nước không hẳn là cái gì lớn lao, có khi nó bắt nguồn từ những điều, những việc rất nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. Tinh thần yêu nước thiêng liêng mà gần gũi sẽ mãi là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam qua bao đời.
Tham khảo:
Dân tộc ta có một truyền thống đấu tranh chống xâm lược; đã bao thế hệ cha ông nối tiếp nhau đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc và viết nên những trang sử oai hùng. Trong giai đoạn chống Pháp gay go ác liệt, để động viên cổ vũ lòng yêu nước của toàn dân, tại Đại hội Đảng lần II năm 1954, trong bài viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Hồ Chủ tịch đã khẳng định: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Thật vậy, lòng yêu nước đã trở thành truyền thống, phẩm chất của con người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tình cảm này có khi được thực hiện bằng những hành động cụ thể, nhiều lúc thể hiện qua thơ ca. Đã có biết bao chiến sĩ, nhà thơ đã mượn lời thơ để giãi bày tấm lòng yêu quê hương của mình. Trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là một minh chứng hùng hồn nhất của lòng yêu nước:
Một xin rửa sạch thù nhà
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng..
Đầu mùa xuân 1077, chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thườrg Kiệt đánh tan 4 vạn quân Tống xâm lược đã khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta làm sao quên được bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên, tương truyền của Lý Thường Kiệt, ngân nga trong ngôi đền bên sông ấy:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tụi thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Sông núi nước Nam - đã dịch ra tiếng Việt) Chính lòng yêu nước mãnh liệt ấy khiến Trần Quốc Tuân thốt lên những lời tâm sự thiết tha và đầy chân thành:
“Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, dẫu cho trăm thây ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xúc ta gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng ”
(Hịch tướng sĩ)
Và đêm đêm giấc ngủ không tròn, Nguyễn Trãi cứ mãi lo nghĩ đến quê hương đất nước:
Những trằn trục trong cơn mộng mị
Chỉ băn khoăn một nỗi bồi hồi.
Đến lúc thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta được phát huy cao độ.
Với giọng thơ hào hùng, Phan Bội Châu, con người tài cao chí lớn, dù bị giam trong nhà lao vẫn tự hào, vẫn không mất nhuệ khí của người trai:
Vẫn hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác)
Đối với người yêu nước, nhưng dù đày khổ sở mà bọn giặc cố tình hành hạ cũng không làm cho họ chùn bước ngã lòng, mà ngược lại đó là dịp để cho “người lờ bước” thể hiện khí phách của mình:
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con.
(Đập đá ở Côn Lôn )
Từ năm 1930 cuộc đấu tranh giành độc lập được tiến hành dưới ngọn cờ của giai cấp vô sản, những người thanh niên trẻ yêu nước, giác ngộ lí tưởng sẵn sàng hiến dâng đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
(Từ ấy - Tô Hữu)
Cũng trong lúc này, những tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm của giới thanh niên đáng để chúng ta khâm phục. Họ là những chiến sĩ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” như Lý Tự Trọng, Lê Hồng Phong, Nguyền Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu... những Người đã viết lên những trang sử oai hùng.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta được thể hiện rõ nét và tiêu biểu nhất là hình tượng Bác Hồ, người cha già của dân tộc, vị lãnh tụ đáng kính, linh hồn của cuộc kháng chiến. Bác đã từ bỏ tuổi thanh xuân của mình ra đi tìm đường cứa nước và luôn mang trong tên một quyết lâm đánh đuổi kẻ thù ra khỏi đất nước Trong ngục tù, Bác đã trằn trọc suốt đêm vì mãi lo nghĩ đến sự nghiệp cá mạng còn dang dở:
Một canh... hai canh... lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.
(Không ngủ được - Hồ Chí Minh)
Và truyền thống ấy được dân tộc ta phát huy tới đỉnh cao nhất trong lịch đấu tranh chống ngoại xâm - cuộc chiến chống Mĩ cứu nước. Giai đoạn này to dân trỏ, già, trai, đều hiến dâng sức lực, trí tuệ của mình cho công cu: đấu tranh giữ nước:
Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành.
Và cũng có biết hao tấm gương yêu nước của các chiến sĩ cách mạng đã là cho kẻ thù khiếp sự... như anh Nguyỗn Vãn Trỗi với chín phút cuối cùng của đ anh (Sống như anh); như chị Sứ vẫn hiên ngang giữ được phẩm chất anh hù của mình trước cái chết gần kể (Hòn đất); như anh giải phóng quân kiên cường dũng cảm trên đường băng Tân Sơn Nhất:
...Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường.
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ.
(Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)
Rõ ràng với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã viết tiếp những trang sử vàng của Lê Lợi, Quang Trung:
Chi Lăng bài học thuở xưa
Người đi thì có, người về thì không.
Lòng yêu nước đã khiến cho nhân dân ta có sức mạnh phi thường vượt qua mọi khó khăn gian khổ, chiến thắng bọn cướp nước và bán nước. Đáng tự hào thay sự hi sinh cao cả của những người con nước Việt.
Có thế nói lòng yêu nước của dân tộc ta là nhân tố quyết định thắng lợi trong công cuộc đấu tranh chống xâm lược, để bảo vệ Tổ quốc. Em nguyện sống sao cho xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của cha anh đã ngã xuống vì độc lập, tự do, vì hạnh phúc của nhân dân.
Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là truyền thống quý báu của dân tộc
Nhân dân ta không chỉ giàu về tình nghĩa, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… mà còn có lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng. Lòng yêu nước trở thành một truyền thống đẹp đẽ, quý báu của nhân dân ta, nó được phát huy và thể hiện mạnh mẽ mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng. Truyền thống quý báu đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích: “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài văn được trích trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Bài văn có thể coi là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận.
Trước hết về nội dung, văn bản nêu lên luận đề cơ bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ. Trong câu văn tiếp theo tác giả đã sử dụng động từ với hình thức tăng tiến: lướt qua, nhấn chìm cùng với đó là hình ảnh so sánh tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ, đã cho thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Để làm sáng tỏ chân lí đó tác giả đã chứng minh nó ở hai thời điểm: quá khứ và hiện tại.
Bề dày lịch sử truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được tác giả đưa ra dẫn chứng cụ thể ở các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đây là những vị anh hùng của dân tộc. Lấy những dẫn chứng hết sức tiêu biểu, mỗi nhân vật lịch sử gắn liền với một chiến công hiển hách, vang dội đã làm cho người đọc thấy rõ tinh thần yêu nước của tổ tiên, ông cha.
Không dừng lại ở đó, để mở rộng luận điểm, làm người đọc tin và bị thuyết phục hơn nữa, tác giả tiếp tục lấy dẫn chứng đến thời điểm hiện tại. Ở đoạn thứ ba Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng hàng loạt các dẫn chứng. Sau câu chuyển đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” Hồ Chí Minh đã khái quát lòng yêu nước ghét giặc của nhân dân: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Tiếp đó bằng hình thức liệt kê, kết hợp với mô hình liên kết từ …đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, lứa tuổi, giai cấp,… Những dẫn chứng đó vừa cụ thể vừa toàn diện, thể hiện sự cảm phục, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của đồng bào ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phần cuối văn bản là lời khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, chúng có thể rõ ràng dễ thấy nhưng cũng có khi được “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Lần đầu tiên, một thứ vô hình là lòng yêu nước lại được Bác cụ thể hóa, hữu hình hóa một cách vừa giản dị vừa cao quý đến như vậy. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không phải những điều lớn lao, xa vời mà nó giản dị, ở ngay xung quanh ta. Nhiệm vụ của ta lại phải phát huy lòng yêu nước đó thành những hành động, việc làm cụ thể trong công việc kháng chiến, công việc yêu nước.
Về nghệ thuật, bài văn có bố cục chặt chẽ, gồm ba phần (phần một nêu lên vấn đề nghị luận “tinh thần yêu nước của nhân dân ta”; phần hai chứng minh tinh thần yêu nước trong quá khứ và hiện tại; phần ba nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước). Lập luận mạch lạc, rõ ràng, lí lẽ thống nhất với dẫn chứng. Dẫn chứng phong phú, cụ thể, được diễn đạt bằng những hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động.
Bài văn đã làm sáng tỏ chân lí muôn đời của cha ông ta đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng đấu tranh và hi sinh để giành tự do, độc lập cho dân tộc. Truyền thống đẹp đẽ đó cần phải được phát huy mạnh mẽ vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.