Văn bản ngữ văn 9

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Tuệ Nhi

Thuyết minh về Nguyễn Đình Chiểu và bài thơ Lục Vân Tiên

Thanh Dat Nguyen
10 tháng 10 2018 lúc 14:38

Nguyễn Đình Chiểu có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống và cống hiến cho đời rất mãnh liệt. Ở tuổi đôi mươi, ông bước vào đời hăm hở và đầy khát vọng như chàng trai Lục Vân Tiên buổi lên kinh ứng thí:

Chí lăm bắn nhạn ven mây,
Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa.
Làm trai trong cõi người ta,
Trước lo báo bổ, sau là hiển vang.

Nhưng bất hạnh đã dồn dập ập đến: mới mười sáu tuổi mà ông đã lâm vào cảnh đui mù, tàn tật. Thế là đường công danh nghẽn lối, tình duyên đứt đoạn. Ông lần tìm về đến quê nhà thì lại gặp buổi loạn li. Tiếp đó là những ngày cùng gia đình lao đao chạy giặc. Ông căm uất trước cảnh giang sơn bốn chia năm xé, đau lòng trước tình cảnh khôn khó, lầm than của dân chúng. Bão táp cuộc đời không ngừng vùi dập, xô đẩy nhưng Nguyễn Đình Chiểu không gục ngã trước số phận. Ông vẫn ngẩng cao đầu mà sống có ích cho dân, cho nước đến hơi thở cuối cùng.

Nguyễn Đình Chiểu can đảm ghé vai gánh vác một lúc cả ba trọng trách của thầy giáo, thầy thuốc và nhà thơ. Ở cương vị nào ông cùng cống hiến hết mình và nêu gương sáng cho đời. Là một thầy giáo, danh tiếng cụ Đồ Chiểu vang khắp miền Lục tĩnh. Một hình ảnh cảm động còn lưu truyền mãi trong dân gian là khi ông mất, cả cánh đồng Ba Tri rợp trắng khăn tang của các thế hệ học trò và của những người dân mến mộ tài đức của ông.
Là một thầy thuốc, ông không tiếc công sức cứu nhân độ thế:

Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,
Chẳng màng cửa lợi, chẳng ganh ghẻ tài.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
nguyen dinh chieu

Là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời bao trang thơ bất hủ, được lưu truyền rộng rãi như Truyện Lục Vân Tiên, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư Tiều y thuật vấn đáp…

Nguyễn Đình Chiểu có lòng yêu nước thiết tha và tinh thần bất khuất hiếm có. Mặc dầu mù loà, bệnh tật, gia cảnh thanh bần, nhưng ngay từ những ngày đầu đụng dộ với giặc ngoại xâm, ông đã kiên quyết giữ vững lập trường của mình. Ông làm quân sư cho các lãnh tụ nghĩa quân, đồng thời sáng tác thơ văn để khích lệ tinh thần chiên đấu của nghĩa sĩ. Khi cả Lục tỉnh Nam Kì đã rơi vào tay giặc, ông lánh về sống ở Ba Tri (Bến Tre) nêu cao khí tiết của con người thua cuộc mà lưng vắn thẳng, đầu vẫn ngẩng cao, ngay kẻ thù cũng phải kính nể. Ông sống nghĩa khí, trong sạch giữa tình yêu thương, kính trọng của đồng bào và Trọn đời một tấm lòng son.

Truyện Lục Vân Tiên gồm bốn phần. Tóm tắt nội dung như sau:

Phần thứ nhất: Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyện Nga.

Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp Phong Lài đang hoành hành, chàng dà một mình đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay vẽ bức hình chàng. Còn Vân Tiên làm xong việc nghĩa, thanh thản ra đi, gặp gỡ và kết bạn với Hớn Minh cũng đang trên đường tới kinh đô ứng thí.

Phần thứ 2: Lục Vân Tiên gặp nạn và được cứu giúp.

Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường, tiện thể ghé thăm Võ Công, là người đã hứa gả con gái tôn Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực. Tới kinh đô, chàng gặp một số sĩ tử khác là Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Suốt đường về, Vân Tiên khóc nhiều nên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông Ngư cưu mang. Sau đó, chàng lại bị cha con Võ Công hãm hại, đem bỏ vào hang núi Thương Tòng. Dược Sơn thần và ông Tiều cứu ra, Vân Tiên may mắn gặp lại bạn hiền là Hớn Minh, vì trừng trị cậu công tử con quan ỷ thế làm càn mà phải bỏ thi, sông lẩn lút trong rừng. Hớn Minh đón bạn về nương náu ở nơi am vắng. Khoa thi năm ấy, Tử Trực đỗ thủ khoa, đến nhà họ Võ hỏi thầm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muôn gả con gái cho, liền bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt là đồ vô sỉ Võ Công hổ thẹn rồi ốm mà chết.

Phần thứ 3: Kiều Nguyệt Nga gặp nạn mà vẫn giữ lòng chung thuỷ.

Khi nghe tin Lục Vân Tiên đã chết trên đường trở về quê nhà, Kiều Nguyệt Nga rất đau khổ và thề sẽ thủ tiết suốt đời. Tên Thái sư đương triều ép hỏi nàng làm vợ cho con trai mình không được, nên đem lòng thù oán, tâu vua bắt Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua để tránh nạn binh đao. Thuyền đi tới biên giới Nguyệt Nga mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đã cứu và đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm con trai ông ta lại khăng khăng đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng sống nhờ ở nhà một bà lão dệt vải.

Phần thứ 4: Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp lại nhau.

Lục Vân. Tiên ở với Hớn Minh, được Tiên ông cho thuốc thần, mắt sáng lại, liền trở về nhà thăm cha và viếng mộ mẹ. Đến khoa thi sau, chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh làm phó tướng cho chàng. Đánh tan giặc, Vân Tiên bị lạc trong rừng sâu, tình cờ đến nhà bà lão hỏi thăm đường và gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu bày hết sự tình với đức vua. Cuối cùng, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp. Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc bên nhau.

Lục Vận Tiên là truyện thơ Nôm được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, được lưu truyền rộng rãi dưới các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian như kể thơ, nói thơ Vân Tiên, hát Vân Tiên ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Vì tái bản nhiều lần nên truyện có nhiều dị bản, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, thì truyện có tới 2082 câu thơ lục bát.

Truyện có cấu trúc theo kiểu chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của các nhân vật chính.

Mục đích của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu khi viết truyện riày là để truyền dạy đạo lí làm người:

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Đạo lí đó có thể thâu tóm ở mấy điểm sau:

Thứ nhất: Coi trọng tình nghĩa giữa người với người: tình cha con, mẹ con, tình nghĩa vợ chồng, bè bạn, tình yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.

Thứ hai: Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phố nguy (Vân Tiên đánh cướp, Hớn Minh bẻ giò cậu công tử con quan cậy thế cha làm bậy).
Thứ ba: Thổ hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và nhừng điều tốt dẹp trong cuộc đời qua kết thúc có hậu của truyện là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.

Vào thời Nguyễn Đình Chiểu sống, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kỉ cương lỏng leo, đạo đức suy vi, xã hội nhiễu nhương… Cho nên, một tác phậm như Vân Tiên đã đáp ứng đầy đủ nguyện vọng và ước mơ công lí của nhân dân. Cũng bởi thế mà sau khi ra đời, truyện đã được nhân dân Nam Bộ nồng nhiệt tiếp nhận:

Về đặc điểm nghệ thuật, Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm chủ yếu dùng để kể hơn là để đọc nên chú trọng đến hành động của nhân vật nhiều hơn là miêu tả nội tâm, do đó tính cách nhân vật thường bộc lộ qua việc làm, lời nói, cử chỉ. Thái độ ca ngợi hay phê phán của tác giả đều thể hiện qua cách miêu tả nhân vật.

Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm có sức sống mạnh mẽ và lâu bền trong lòng công chúng, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ. Ngay từ năm 1864, tức là chỉ mười năm sau khi tác phẩm ra đời, một người Pháp đã dịch tác phẩm này ra tiếng Pháp. Điều thôi thúc ông ta làm việc đó chính là hiện tượng đặc biệt mà ông ta được chứng kiến ở Nam Kì Lục tỉnh, cỏ lẽ không có một người chài Lưới hay người lái đò nào lại không ngâm nga vài ba câu (Lục Vân Tiên) trong khi đưa đẩy mái chèo. Ông ta đánh giá tác phẩm Lục Vân Tiên như là một trong những sản phẩm hiếm có của trí tuệ con người, có cái ưu điểm lớn là diễn tả được trung thực những hình ảnh của cả một dân tộc.

Cộ ý kiến cho rằng tác phẩm Lục Vân Tiên có tính chất tự truyện. Giữa tiêu sử của tác giả và nhân vật Lục Vân Tiên có những nét tương đồng, trùng hợp như việc bỏ thi về nhà chịu tang, đau mắt và bị mù, bị bội hôn, về sau gặp được một cuộc hôn nhân tốt đẹp…

Tuy vậy vẫn có những khác biệt: Lục Vân Tiên được Tiên ông cho thuốc, mắt lại sáng, tiếp tục đi thi, đỗ Trạng nguyên và cầm quân đánh giặc thắng lợi. Còn với Nguyễn Đình Chiểu thì vĩnh viễn là bóng tối. Sự khác biệt đó nói lên ước mơ và khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu mà ông chỉ có thể gửi gắm nó qua nhân vật lí tưởng của mình.

Thanh Dat Nguyen
11 tháng 10 2018 lúc 17:32

Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822, tại làng Tân Khánh[1], phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Cha ông tên Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, là thư lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông bỏ trốn ra Huế rồi bị cách chức. Năm 1833 cha ông trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.
Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng chưa kịp thi thì được tin mẹ mất tại Sài Gòn (1849). Trên đường trở về chịu tang mẹ, vì thời tiết thất thường, vất vả và khóc thương nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt.
Đui mù, mất mẹ, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút... ông đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, ông mới mở trường dạy học và làm thuốc.
Năm 1854, một người học trò tên là Lê Tăng Quýnh vì cảm phục và mến thương ông, nên đã xin gia đình gả cô em gái thứ năm của mình tên là Lê Thị Điền (1835 - 1886), người Cần Giuộc (Long An), cho thầy.
Kể từ đó, gần chục năm sau, ngoài đôi việc trên ông còn sáng tác truyện thơ Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, để gửi gắm tình ý cùng hoài bão của mình.
Ngày 17 tháng 2 năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, được nhiều người đánh giá cao.
Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ với những sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến; từ chối trước mọi cám dỗ của đối phương.
Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, nghĩa sĩ đã mất.
Ngày 3 tháng 7 năm 1888, ông mất tại Ba Tri, Bến Tre. Người ta kể lại rằng ngày đưa đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông
Văn và Người
Mô tả về nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Văn Châu đã viết:
"Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam."
Dù đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình...
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Phạm Thế Ngũ nhận xét:
"So với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn hợp tác..."
Ghi nhận những thành tựu trong sự nghiệp văn học nghệ thuật của ông, trên trang web của tỉnh Bến Tre có bài viết:
"Truyện Lục Vân Tiên dài 2.083 câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cho là có mang tính chất tự truyện đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở Nam Kỳ. Truyện lên án bọn người độc ác, xấu xa, tráo trở, gian manh, bất nhân, bất nghĩa, đồng thời ngợi ca những tấm lòng nhân hậu, thủy chung."
"Tác phẩm Dương Từ, Hà Mậu dài 3.448 câu thơ kịch liệt công kích đạo Phật, đạo Thiên Chúa lúc bấy giờ như một mối nguy cơ cho đất nước. Dựa vào trí tưởng tượng nhân gian (thiên đường, địa ngục), tác giả để cho nhân vật tự “giải mê" qua cuộc hành trình dài đi tìm chân lý đầy gian khổ, rồi trở về trong sự hòa hợp của gia đình, làng nước."
"Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định. Nhà thơ lánh về quê vợ ở Cần Giuộc (Long An). Âm vang của trận công đồn diệt bọn “Tây dương” tại nơi đây đã gợi lên cảm hứng để ông viết áng văn bất hủ ngợi ca những người nông dân chân đất anh hùng xả thân vì sự nghiệp cứu nước: Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc..."
"Ông là người mở đầu cho dòng văn chương yêu nước Việt Nam chống Pháp xâm lược ở nửa sau thế kỷ XIX. Thơ văn ông gắn chặt với những biến cố lớn lao của đất nước lúc bấy giờ. Đó là:Chạy Tây (1859), Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc (1861), Cáo thị, Thảo thử hịch', Thư gửi cho em, Mười hai bài thơ điếu Trương Định (1864), Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (1874) và hai tập truyện thơ dài Dương Từ - Hà Mậu và Ngư tiều y thuật vấn đáp..."
"Cảm hứng chủ đạo của thơ văn ông ở giai đoạn đầu là cảm hứng đạo lý và yếu tố này đã được nâng lên thành trữ tình đạo lý đầy nhân nghĩa, thảo ngay, đồng thời cũng giàu chất phê phán, phẫn nộ trước mọi điều bất nhân, bất nghĩa như ông đã tự bạch:"
Nói ra thì nước mắt trào,
Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi...
"Những tác phẩm ở giai đoạn sau - thời kỳ đất nước bị xâm lăng - của ông là những trang bất hủ ngợi ca cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống xâm lược phương Tây ngay từ buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta (Phạm Văn Đồng)
Tóm lại, sáng tác của ông gồm nhiều thể loại, thể tài, trong đó thành công nghệ thuật nổi bật nhất là truyện thơ Nôm và văn tế Nôm. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu tính nhân dân cùng những hình tượng nhân vật sinh động trong nhiều thể loại, khiến chơ ngòi bút của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần bồi đắp tâm hồn dân tộc, nâng vị trí của văn học miền Nam lên ngang tầm văn học cả nước. Ông là người kết thúc một cách rực rỡ văn học của giai đoạn trước đó và mở đầu cho dòng văn chương yêu nước chống xâm lược.
Tác phẩm chính
Lục Vân Tiên sáng tác trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, có tính chất tự truyện.
Dương Từ Hà Mậu (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Ngư Tiều y thuật vấn đáp (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861)
Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864)
Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868)
Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874)
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Hịch đánh chuột (chưa xác định thời điểm sáng tác).Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822, tại làng Tân Khánh[1], phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).

Cha ông tên Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, là thư lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông bỏ trốn ra Huế rồi bị cách chức. Năm 1833 cha ông trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.
Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng chưa kịp thi thì được tin mẹ mất tại Sài Gòn (1849). Trên đường trở về chịu tang mẹ, vì thời tiết thất thường, vất vả và khóc thương nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt.
Đui mù, mất mẹ, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút... ông đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, ông mới mở trường dạy học và làm thuốc.
Năm 1854, một người học trò tên là Lê Tăng Quýnh vì cảm phục và mến thương ông, nên đã xin gia đình gả cô em gái thứ năm của mình tên là Lê Thị Điền (1835 - 1886), người Cần Giuộc (Long An), cho thầy.
Kể từ đó, gần chục năm sau, ngoài đôi việc trên ông còn sáng tác truyện thơ Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, để gửi gắm tình ý cùng hoài bão của mình.
Ngày 17 tháng 2 năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, được nhiều người đánh giá cao.
Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ với những sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến; từ chối trước mọi cám dỗ của đối phương.
Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, nghĩa sĩ đã mất.
Ngày 3 tháng 7 năm 1888, ông mất tại Ba Tri, Bến Tre. Người ta kể lại rằng ngày đưa đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông
Văn và Người
Mô tả về nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Văn Châu đã viết:
"Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam."
Dù đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình...
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Phạm Thế Ngũ nhận xét:
"So với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn hợp tác..."
Ghi nhận những thành tựu trong sự nghiệp văn học nghệ thuật của ông, trên trang web của tỉnh Bến Tre có bài viết:
"Truyện Lục Vân Tiên dài 2.083 câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cho là có mang tính chất tự truyện đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở Nam Kỳ. Truyện lên án bọn người độc ác, xấu xa, tráo trở, gian manh, bất nhân, bất nghĩa, đồng thời ngợi ca những tấm lòng nhân hậu, thủy chung."
"Tác phẩm Dương Từ, Hà Mậu dài 3.448 câu thơ kịch liệt công kích đạo Phật, đạo Thiên Chúa lúc bấy giờ như một mối nguy cơ cho đất nước. Dựa vào trí tưởng tượng nhân gian (thiên đường, địa ngục), tác giả để cho nhân vật tự “giải mê" qua cuộc hành trình dài đi tìm chân lý đầy gian khổ, rồi trở về trong sự hòa hợp của gia đình, làng nước."
"Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định. Nhà thơ lánh về quê vợ ở Cần Giuộc (Long An). Âm vang của trận công đồn diệt bọn “Tây dương” tại nơi đây đã gợi lên cảm hứng để ông viết áng văn bất hủ ngợi ca những người nông dân chân đất anh hùng xả thân vì sự nghiệp cứu nước: Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc..."
"Ông là người mở đầu cho dòng văn chương yêu nước Việt Nam chống Pháp xâm lược ở nửa sau thế kỷ XIX. Thơ văn ông gắn chặt với những biến cố lớn lao của đất nước lúc bấy giờ. Đó là:Chạy Tây (1859), Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc (1861), Cáo thị, Thảo thử hịch', Thư gửi cho em, Mười hai bài thơ điếu Trương Định (1864), Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (1874) và hai tập truyện thơ dài Dương Từ - Hà Mậu và Ngư tiều y thuật vấn đáp..."
"Cảm hứng chủ đạo của thơ văn ông ở giai đoạn đầu là cảm hứng đạo lý và yếu tố này đã được nâng lên thành trữ tình đạo lý đầy nhân nghĩa, thảo ngay, đồng thời cũng giàu chất phê phán, phẫn nộ trước mọi điều bất nhân, bất nghĩa như ông đã tự bạch:"
Nói ra thì nước mắt trào,
Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi...
"Những tác phẩm ở giai đoạn sau - thời kỳ đất nước bị xâm lăng - của ông là những trang bất hủ ngợi ca cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống xâm lược phương Tây ngay từ buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta (Phạm Văn Đồng)
Tóm lại, sáng tác của ông gồm nhiều thể loại, thể tài, trong đó thành công nghệ thuật nổi bật nhất là truyện thơ Nôm và văn tế Nôm. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu tính nhân dân cùng những hình tượng nhân vật sinh động trong nhiều thể loại, khiến chơ ngòi bút của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần bồi đắp tâm hồn dân tộc, nâng vị trí của văn học miền Nam lên ngang tầm văn học cả nước. Ông là người kết thúc một cách rực rỡ văn học của giai đoạn trước đó và mở đầu cho dòng văn chương yêu nước chống xâm lược.
Tác phẩm chính
Lục Vân Tiên sáng tác trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, có tính chất tự truyện.
Dương Từ Hà Mậu (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Ngư Tiều y thuật vấn đáp (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861)
Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864)
Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868)
Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874)
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Hịch đánh chuột (chưa xác định thời điểm sáng tác).


Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Cơ
Xem chi tiết
๖ۣۜRαη ๖ۣۜMσɾĭ
Xem chi tiết
Bùi Thị Minh Phương
Xem chi tiết
Bùi Thị Minh Phương
Xem chi tiết
Su Su Võ
Xem chi tiết
Lê khắc Tuấn Minh
Xem chi tiết
Câụ Bé Mùa Đông
Xem chi tiết
Tuyết Ảnh Băng
Xem chi tiết
Alice
Xem chi tiết