Đề bài : Phân tích bài

Nguyễn Kiều Trang

phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ "vọng lư sơn bộc bố và "xa ngắm thác núi lư"

Minh Thư
26 tháng 12 2016 lúc 19:38

Vọng lư sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi lư):

Trong con mắt thi nhân cảnh vật khoáng đạt đẹp đẽ biết bao. Với bút pháp điêu luyện hồn thơ bay bổng, tấm lòng say đắm, trí tưởng tượng diệu kỳ và sự sáng tạo độc đáo, tác giả đã dựng nên bức tranh về dòng thác với muôn nghìn sắc màu làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và nhớ mãi.

Nếu như một thời độc giả hồ nghi tiên sinh Tản Đà được Ngọc Hoàng đầy xuống hạ giới để thực hiện xứ mệnh trời giao. Thì chúng ta chẳng có gì bỡ ngờ khi rất nhiều người cho rằng đầu thế kỉ thứ VIII - đời nhà Đường có một ông tiên thơ Lý Bạch được phái xuống trần gian. Do vậy thơ của ông mang phong cách “tiên” vừa phóng khoáng, lãng mạn lại kỳ vĩ tráng lệ. Chất thơ ấy thể hiện sâu sắc qua bài Vọng Lư sơn bộc bố.

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên

Dịch thơ:

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay

Xa trông dòng thác trước sông này

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây

(Tương Như dịch)

Nhan đề bài thơ là vọng (nhìn từ xa) hơn nữa lại là dao khan (trông từ xa). Từ đó ta thấy cảnh thác núi Lư sơn thật hùng vĩ, hoành tráng, mỹ lệ. Tác giả chọn vị trí từ xa để bao quát cảnh vật, đồng thời cảnh thác nước Lư sơn hiện ra vừa thực, vừa ảo lung linh sinh sắc:

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

(Nắng rọi Hương Lô khói, tía bay)

Núi Lư là một ngọn núi cao, quanh năm mây mù bao phủ. Tác giả dùng hình ảnh ví von đặc biệt: ngọn núi được ví với Lô Hương giữa đất trời, mây bay chập chờn trên đỉnh Lô Hương. Đã thế tác giả lại khắc hoạ Lô Hương trong một ngày nắng đẹp.

Mặt trời phản chiếu vào Hương Lô sinh làn khói tía. Vì sao vậy? Khói thì màu trắng, mà tử yên là làn khói khá tươi đẹp, màu khói gợi sự mơ mộng, suy tư. Đến câu thơ thứ hai dòng thác hiện ra uyển chuyển:

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

(Xa trông dòng thác trước sông này)

Từ xa quan sát, thác nước như dải lụa trắng xoá mềm mại treo lên giữa lưng chừng núi và dòng sông. Trên thực tế núi thì cao, nước đổ thẳng xuống, và đương nhiên dòng thác sẽ không thể dội thẳng đứng được mà nó mềm mại như dải lụa được treo lên, mà lại treo lơ lửng. Ai có thể treo được một dòng thác? Đọc đến đây ta không khỏi ngỡ ngàng khi nhận thấy trên đỉnh núi Hương Lô mây bay rực rỡ, nghi ngút khói hương. Từ trong chính chỗ đó phun ra dòng thác trắng xoá bay xuống. Lạ kì thay thác chảy mà như lụa bay lơ lửng trước mắt nhà thơ. Từ quải được xem như là nhãn tự của câu thơ khiến dòng thác kỳ vĩ hơn lung linh hơn.

Phi lưu trực há tam thiên xích

(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)

Bằng những thanh bằng - bằng, trắc - trắc trong cụm từ (phi lưu trực há), ta cảm thấy như dòng thác lướt nhẹ như những thanh bằng. Ngọn thác cao vút đổ xuống ầm ầm bên sườn núi dựng đứng. Vậy thì tiếng thác chảy, bọt nước sẽ tạo thành màn sương và những âm thanh ào ạt, tiếng nước đổ khiến ta cảm thấy là có thật, nhưng làn khói sương mờ mờ ảo ảo ấy tạo thành bức tranh huyễn hoặc. Vì vậy khiến tác giả hồ nghi:

Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên

(Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây)

Có nhiều lúc người ta đang chứng kiến một sự thực nhưng lại không tin vào mắt mình. Cái lý trí bị lấn át bởi tình cảm. Trong hoàn cảnh này cũng vậy, dòng thác trước mắt nhà thơ là sản phẩm của sự phối hợp giữa thực và ảo, cái tỉnh và cái mơ, cõi trần gian và nơi thượng giới.

Ngỡ là tức là bản thân tác giả biết rằng nó không phải thế nhưng vẫn muốn tin là thế. Cảnh đẹp đã chắp cánh làm cho tác giả nghĩ đến dòng sông của thần thoại. Một dòng nước dội xuống từ ba ngàn thước, mà ngỡ như dòng sông Ngân rơi tựa chín tầng mây. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ. Trí tưởng tượng tuyệt vời, ngôn ngữ thơ ca đã nâng ngọn bút và cảm hứng lãng mạn thần tiên lên đến tuyệt đỉnh mới tạo bức tranh đẹp đến như vậy.

Cùng đề tài này, cùng tả dòng thác Lư sơn, một nhà thơ Đường khác Từ Tử Ngưng đã viết:

Hư không lạc tuyền thiên nhẫn trực

Lôi bôn nhập giang bất tạm tức

Thiên cổ trường như bạch luyện phi

Nhất diều giới phá thanh sơn sắc.

Rõ ràng khi so sánh dòng thác trong hai bài thơ này ta thấy rằng dòng thác Lư sơn trong bài thơ của Lý Bạch kỳ vĩ huyền ảo và thơ mộng hơn nhiều. Hay nói cho đúng hơn không còn vần thơ nào tả được hay hơn Lý Bạch.

Trong con mắt thi nhân cảnh vật khoáng đạt đẹp đẽ biết bao. Với bút pháp điêu luyện hồn thơ bay bổng, tấm lòng say đắm, trí tưởng tượng diệu kỳ và sự sáng tạo độc đáo, tác giả đã dựng nên bức tranh về dòng thác với muôn nghìn sắc màu làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và nhớ mãi.

Bạn tham khảo nhé! Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
phuc le
26 tháng 12 2016 lúc 19:38

Nếu như một thời độc giả hồ nghi tiên sinh Tản Đà được Ngọc Hoàng đầy xuống hạ giới để thực hiện xứ mệnh trời giao. Thì chúng ta chẳng có gì bỡ ngờ khi rất nhiều người cho rằng đầu thế kỉ thứ VIII - đời nhà Đường có một ông tiên thơ Lý Bạch được phái xuống trần gian. Do vậy thơ của ông mang phong cách “tiên” vừa phóng khoáng, lãng mạn lại kỳ vĩ tráng lệ. Chất thơ ấy thể hiện sâu sắc qua bài Vọng Lư sơn bộc bố.

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên

Dịch thơ:

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay

Xa trông dòng thác trước sông này

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây

(Tương Như dịch)

Nhan đề bài thơ là vọng (nhìn từ xa) hơn nữa lại là dao khan (trông từ xa). Từ đó ta thấy cảnh thác núi Lư sơn thật hùng vĩ, hoành tráng, mỹ lệ. Tác giả chọn vị trí từ xa để bao quát cảnh vật, đồng thời cảnh thác nước Lư sơn hiện ra vừa thực, vừa ảo lung linh sinh sắc:

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

(Nắng rọi Hương Lô khói, tía bay)

Núi Lư là một ngọn núi cao, quanh năm mây mù bao phủ. Tác giả dùng hình ảnh ví von đặc biệt: ngọn núi được ví với Lô Hương giữa đất trời, mây bay chập chờn trên đỉnh Lô Hương. Đã thế tác giả lại khắc hoạ Lô Hương trong một ngày nắng đẹp.

Mặt trời phản chiếu vào Hương Lô sinh làn khói tía. Vì sao vậy? Khói thì màu trắng, mà tử yên là làn khói khá tươi đẹp, màu khói gợi sự mơ mộng, suy tư. Đến câu thơ thứ hai dòng thác hiện ra uyển chuyển:

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

(Xa trông dòng thác trước sông này)

Từ xa quan sát, thác nước như dải lụa trắng xoá mềm mại treo lên giữa lưng chừng núi và dòng sông. Trên thực tế núi thì cao, nước đổ thẳng xuống, và đương nhiên dòng thác sẽ không thể dội thẳng đứng được mà nó mềm mại như dải lụa được treo lên, mà lại treo lơ lửng. Ai có thể treo được một dòng thác? Đọc đến đây ta không khỏi ngỡ ngàng khi nhận thấy trên đỉnh núi Hương Lô mây bay rực rỡ, nghi ngút khói hương. Từ trong chính chỗ đó phun ra dòng thác trắng xoá bay xuống. Lạ kì thay thác chảy mà như lụa bay lơ lửng trước mắt nhà thơ. Từ quải được xem như là nhãn tự của câu thơ khiến dòng thác kỳ vĩ hơn lung linh hơn.

Phi lưu trực há tam thiên xích

(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)

Bằng những thanh bằng - bằng, trắc - trắc trong cụm từ (phi lưu trực há), ta cảm thấy như dòng thác lướt nhẹ như những thanh bằng. Ngọn thác cao vút đổ xuống ầm ầm bên sườn núi dựng đứng. Vậy thì tiếng thác chảy, bọt nước sẽ tạo thành màn sương và những âm thanh ào ạt, tiếng nước đổ khiến ta cảm thấy là có thật, nhưng làn khói sương mờ mờ ảo ảo ấy tạo thành bức tranh huyễn hoặc. Vì vậy khiến tác giả hồ nghi:

Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên

(Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây)

Có nhiều lúc người ta đang chứng kiến một sự thực nhưng lại không tin vào mắt mình. Cái lý trí bị lấn át bởi tình cảm. Trong hoàn cảnh này cũng vậy, dòng thác trước mắt nhà thơ là sản phẩm của sự phối hợp giữa thực và ảo, cái tỉnh và cái mơ, cõi trần gian và nơi thượng giới.

Ngỡ là tức là bản thân tác giả biết rằng nó không phải thế nhưng vẫn muốn tin là thế. Cảnh đẹp đã chắp cánh làm cho tác giả nghĩ đến dòng sông của thần thoại. Một dòng nước dội xuống từ ba ngàn thước, mà ngỡ như dòng sông Ngân rơi tựa chín tầng mây. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ. Trí tưởng tượng tuyệt vời, ngôn ngữ thơ ca đã nâng ngọn bút và cảm hứng lãng mạn thần tiên lên đến tuyệt đỉnh mới tạo bức tranh đẹp đến như vậy.

Cùng đề tài này, cùng tả dòng thác Lư sơn, một nhà thơ Đường khác Từ Tử Ngưng đã viết:

Hư không lạc tuyền thiên nhẫn trực

Lôi bôn nhập giang bất tạm tức

Thiên cổ trường như bạch luyện phi

Nhất diều giới phá thanh sơn sắc.

Rõ ràng khi so sánh dòng thác trong hai bài thơ này ta thấy rằng dòng thác Lư sơn trong bài thơ của Lý Bạch kỳ vĩ huyền ảo và thơ mộng hơn nhiều. Hay nói cho đúng hơn không còn vần thơ nào tả được hay hơn Lý Bạch.

Trong con mắt thi nhân cảnh vật khoáng đạt đẹp đẽ biết bao. Với bút pháp điêu luyện hồn thơ bay bổng, tấm lòng say đắm, trí tưởng tượng diệu kỳ và sự sáng tạo độc đáo, tác giả đã dựng nên bức tranh về dòng thác với muôn nghìn sắc màu làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và nhớ mãi.



Bình luận (0)
Nguyễn Trần Thành Đạt
27 tháng 12 2016 lúc 6:26

Lí Bạch và Đỗ Phủ là hai ngôi sao sáng của thơ Đường. Mỗi người một vẻ, người này không làm giảm mất giá trị của người kia; tên hai người đã gắn chặt với nhau, làm cho khi nhắc đến người này ta không thể không nhắc đến người kia. Có thể nói thơ của hai người gộp lại mới nói lên được đầy đủ tâm hồn người Trung Quốc thời ấy. Chúng ta sẽ nói về điều này qua việc đối sánh hình tượng thiên nhiên trong thơ của hai ông. Cái độc đáo và thành công của mỗi nhà thơ Đường chính là phải tìm ra những cái hết sức mới, những cái không lặp lại trong vốn đề tài thơ ca cũ kĩ và nghèo nàn. Ví như đề tài thiên nhiên trong thơ Đường: chỉ có một đề tài như vậy nhưng có biết bao cơ man nào là những bài thơ viết về nó, dường như, các nhà thơ trung đại hễ làm thơ Đường là sẽ nhất định có ít nhiều bài viết về đề tài này, nếu không có sáng tạo của riêng mỗi người thì liệu ta có thể có được một kho tàng Đường thi phong phú và giàu màu sắc về mảng đề tài này như ta còn thấy đến nay?

Thiên nhiên trong thơ Lí Bạch và Đỗ Phủ cũng phản ánh sự sáng tạo ấy, và chính điều đó đã giúp họ thành công và bước lên đỉnh cao vinh dự: ba đỉnh cao của giai đoạn thơ ca phát triển bậc nhất thơ ca cổ Trung Quốc – thời Đường. Trong nguồn chung là dòng chảy của đề tài thiên nhiên trong thơ Đường, họ không bị hòa lẫn, tan biến mà họ đã tạo ra được dòng riêng của chính mình, để đến nay, người Trung Quốc nói riêng và những ai yêu thơ Lí Bạch, Đỗ Phủ nói chung có quyền tự hào về những sáng tác thành công cả về nội dung và nghệ thuật của hai người nói chung và trong mảng đề tài này nói riêng.

Cần phải giới thuyết rằng, ở đây, ta đối sánh thiên nhiên trong thơ của Lí Bạch và Đỗ Phủ trên những nét đại thể, cơ bản, ta không bàn đến các trường hợp dị biệt, ví dụ như khi nói đến vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Đỗ Phủ mang tính chất bình dị thì không có nghãi là thiên nhiên trong thơ ông không có những bài ngược lại nhưng do những bài đó không tiêu biểu nên ta không bàn đến. Cần lưu ý suốt bài viết này là ta chỉ xem xét ở những nét, những khía cạnh thuộc về tiêu biểu, cơ bản nhất.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Kiều Trang
Xem chi tiết
bê trần
Xem chi tiết
Nguyễn Kiều Trang
Xem chi tiết
Hồng Nhung Đặng Thị
Xem chi tiết
Phạm Hương Giang
Xem chi tiết
Haruno Sakura
Xem chi tiết
nguyen thi thu
Xem chi tiết
B.Trâm
Xem chi tiết
Nghiêm Thị Ngân
Xem chi tiết