10 câu ca dao, dân ca, tục ngữ lưu hành ở địa phương:
1. Ao rộng thì lắm ốc lồi,
Những người lắm vợ là người trời bêu.
2. Thân em khó nhọc trăm bề,
Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dưa,
Vội đi quên cả ăn trưa,
Vội về quên cả cơn mưa ướt đầu.
3. Giàu chớ khoe khoang,
Sang chớ vội mừng,
Trời còn bưng đi bưng lại.
4. Đom đóm vào nhà thì nắng;
Dơi tăng tắng vào nhà thì mưa.
5. Nem xứ Huế. quế xứ Thanh.
Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống.
6. Làm từ nhỏ sẽ lớn thành đầu voi,
Làm từ lớn sẽ nhỏ bằng đuôi chuột.
7. Anh mong làm bạn với trời,
Trời cao, anh thấp biết đời nào quen!
8. Cốc cốc đánh mõ đi tuần,
Cha mi nói dối đau chân ở nhà.
Làng tuần vừa thịt con gà,
- Con ơi ! Bỏ gậy cho cha đi tuần.
9. Thà ăn cơm lộn nâu, chẳng đành chăn trâu lộn bò.
10. Chửi đừng chửi nặng,
Mắng đừng mắng đau.
Còn có ngày thương nhau trở lại.
1. đường vô xứ nghệ quanh quanh
đường ra hà nội như tranh vẽ rồng
SẢN VẬT
- Cam xã Đoài, xoài Bình Định.
- Dưa La, húng Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.
- Lụa này thật lụa Cổ đô
Chính tông lụa cống các cô ưa dùng.
- Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hương Canh.
- Cổng làng Tò, trâu bò làng Hệ.
- Cua Phụng Pháp, rau muống Hiên Ngang.
- Bưởi Đại Trà, cam Đồng Dụ, gà Văn Cú.
- Chẳng đi nhớ cháo làng Ghề
Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên.
- Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sen.
- Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.
- Ai về Phú Hội, Phước Thiên
Chôm chôm xóm Hố, sầu riêng xóm Vườn.
- DI T ICH L ỊCH S Ử
- Thà ăn rau má, rau lang
Hơn theo Bá Cừ thác oan uổng đời.
( Năm 1925, Lê Bá Cừ từ Huế vào Quảng Nam mộ phu đưa vào Nam Bộ làm đồn điền đồn điên cao su)
- Bình Lục có núi Con Rùa
Trông sang Ðạm thủy có chùa Ngọc Thanh.
- Hòn Sương không thấp không cao,
Đã từng là chốn anh hào lập thân.
Kìa ai áo vải cứu dân,
Kìa ai ba thước gươm trần chống Tây ?
Chuyện đời thành bại, rủi may,
Hòn Sương cây trải, đá xây bao sờn.
( Hòn sương: Tục danh của núi Trung Sơn, thôn Phú Lạc, huyện lãnh Khê, nay là huyện Tây Sơn, Bình Định, nơi Mai Xuân Thưởng đã lập căn cứ chống Pháp).
- Kéo quân qua cửa Hùng Quan
Chim muôn giọng (tiếng) hót, hoa ngàn hương đưa
Nhớ ai ngơ ngẩn, ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai .
( Hùng Quan tức cửa Ải Hải Vân tên do vua Lê Thánh Tôn đặt ).
- Hầm Hô có nước trong xanh
Dưới sông cá lội trên cành chim reo.
( Hàm Hô: Địa danh lịch sử của Bình Định liên quan đến chàng Lía, Tây Sơn, thuộc Bình Khê, Huyện Tây Sơn.)
- Hầm Hô có đá khổng lồ
Có hang Bảy Cử, có vò rượu tăm,
( Hàm Hô: Địa danh lịch sử của Bình Định liên quan đến chàng Lía, Tây Sơn, thuộc Bình Khê, Huyện Tây Sơn Hang Bảy Cử: Căn cứ địa của Mai Xuân Thưởng)
- Hàm Hô có cá hóa rồng
Bâng khuâng nhớ đến anh Hùng họ Mai
Vá trời lấp biển cò ai
Ngổn ngang đá chất lớp ngoài lớp trong.
( Hàm Hô: Địa danh lịch sử của Bình Định liên quan đến chàng Lía, Tây Sơn, thuộc Bình Khê, Huyện Tây Sơn. Anh Hùng họ Mai tức Mai Xuân Thưởng lập chiến khu chống Pháp năm 1885 )
- Khu Đ vô dễ khó ra
Là nơi chôn giặc không tha tên nào.
- Đông Ba, Gia Hội, hai cầu
Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông.
- Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có cù lao xanh.
- Cổ Loa thành ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.
- Ai về thăm huyện Đông Ngàn
Ghé thăm thành ốc Rùa Vàng tiên xây.
- Sa Nam, trên chợ dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh
Bạch Đằng Giang là sông cửa ải
Tổng Hà Nam là bãi chiến trường
Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan.
Ai lên làng Quỷnh hái chè,
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi!
Muốn ăn cơm trắng cá mè,
Thì lên làng Quỷnh hái chè với anh.
Muốn ăn cơm trắng cá rô,
Thì lên làng Quỷnh quẩy bồ cho anh!
Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Hàng Gai, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen.
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ai đền công cho
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng
Ai về Hà nội ngược nước Hồng Hà
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui
Đường về xứ Lạng mù xa..
Có về Hà nội với ta thì về
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng,
Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?
Ngày xuân cái én xôn xao
Con công cái bán ra vào chùa Hương.
Chim đón lối, vượn đưa đường
Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.
Sản vật
Ra đi anh nhớ Nghệ An,
Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.
"Yến sào Vinh Sơn
Cửu khổng cửa Ròn
Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Quảng Khê
Sò nghêu quán Hàn...
Rượu dâu Thuận Lý..."
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Đừng thủy thì tiện thuyền bè
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang
10 câu ca dao, dân ca, tục ngữ lưu hành ở địa phương:
1. Ao rộng thì lắm ốc lồi,
Những người lắm vợ là người trời bêu.
2. Thân em khó nhọc trăm bề,
Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dưa,
Vội đi quên cả ăn trưa,
Vội về quên cả cơn mưa ướt đầu.
3. Giàu chớ khoe khoang,
Sang chớ vội mừng,
Trời còn bưng đi bưng lại.
4. Đom đóm vào nhà thì nắng;
Dơi tăng tắng vào nhà thì mưa.
5. Nem xứ Huế. quế xứ Thanh.
Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống.
6. Làm từ nhỏ sẽ lớn thành đầu voi,
Làm từ lớn sẽ nhỏ bằng đuôi chuột.
7. Anh mong làm bạn với trời,
Trời cao, anh thấp biết đời nào quen!
8. Cốc cốc đánh mõ đi tuần,
Cha mi nói dối đau chân ở nhà.
Làng tuần vừa thịt con gà,
- Con ơi ! Bỏ gậy cho cha đi tuần.
9. Thà ăn cơm lộn nâu, chẳng đành chăn trâu lộn bò.
10. Chửi đừng chửi nặng,
Mắng đừng mắng đau.
Còn có ngày thương nhau trở lại.