Nhà thơ Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiên phong cho phong trào thơ Mới. Tác phẩm của Vũ Đình Liên có những tác phẩm có giá trị nghệ thuật vô cùng sâu sắc, để lại tiếng vang cho tới ngày nay. Bài thơ “ông đò” là một trong những bài thơ thể hiện sự thành công đó của Vũ Đình Liên.
Nội dung của bài thơ thể hiện sự hoài cổ của tác giả Vũ Đình Liên với một truyền thống tốt đẹp mang nét văn hóa riêng của dân tộc Việt Nam nhưng bị mai một dần
Bài thơ “ông đồ” được tác giả sáng tác khi mà nền nho giáo ngày càng bị công chúng quên lãng, những tinh hoa xưa chỉ còn lại chút tro tàn. Ông đồ và chữ Nho cũng không còn tồn tài nhiều nữa. trong hai khổ thơ đầu tiên tác giả Vũ Đình Liên đã nhắc lại thời kì hoàng kim của nho giáo khi mà chữ viết của các ông đồ luôn được trân trọng:
Lạ thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng máu rồng bay”
Trong hai khổ thơ này đã nói lên thời gian và địa điểm mà ông đồ thường làm việc. đó chính là những khi năm hết tết đến vào dịp mùa xuân khi có hao đào nở, ông đồ thường viết chữ cho những người dân hi vọng vào một năm mới ăn khang, thịnh vượn, bình an, sức khỏe.
Trong khổ thơ có hoa đào vô vùng thắm tươi, lại có màu đỏ cảu giấy và mực tàu làm cho mọi nét trong bức tranh tả hình ảnh ông đồ thời kì hoàng kim trở nên vô cùng tươi vui, sống động, tràn ngập sức ống. thời gian được viết với hai từ “mỗi năm” thẻ hiện sự lặp đi lặp lạ như một việc vô cùng quen thuộc.
Công việc viết chữ của ông đồ thường xuyên diễn ra trong những năm mà phong trào nho giáp phát triển mạnh mẽ nhất, nên năm nào cũng có những ông đồ ngồi viết chữ, ở những nơi có đông người qua lại, nơi mà mọi người tới xin chữ một cách dễ dàng nhất.
Tác giả Vũ Đình Liên thể hiện nghệ thuật viết chữ của ông đồ như rồng bay phượng múa, một nghệ thuật so sánh độc đáo phần nào làm tôn lên thú xin chữ viết chữ, nhấn mạnh cái tài nghệ, vẻ đẹp thanh cao đáng trân trọng của một nét đẹp thời xưa. Đồng thời thể hiện sự cao quý qua những lời khen ngợi của những người qua đường. thông qua cách miêu tả cách sử dụng từ ngữ cho thấy sự tôn trọng cảu tác giả với những người lưu trữ truyền tống văn hóa của dân tộc.
Trong hai khổ thơ tiếp theo tác giả khắc họa một hình ảnh bức tranh ông đồ thời kì lạc long, khi nho giáo thất sủng, dòng đời mà chữ Nho đã trở thành một quá khứ của thời kỳ hoàng kim, chỉ còn lại tàn tích.
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Câu thơ được nhắc lại thời gian và địa điểm thể hiện một mùa xuân nữa lại tới, cảnh vật hoa đào vãn tươi thắm nhưng chỉ có hình ảnh ông đồ già quen thuộc không thấy nữa. Những con người không quan tâm tới văn hóa nho giáo ngày càng nhiều. Người dân đã quên đi dần nét văn hóa quen thuộc, đáng trân trọng. những câu thơ này thể hiện cảnh tàn lụi cảu một nét đẹp văn hóa nho giáo , với những tờ giấy buồn đỏ thắm, mực đọng trong nghiên sầu, thể hiện sự hững hờ của người đời trong thời kì hiện đại. nhân hóa giấy và bút cũng có cảm xúc như con người cũng thấy buồn khi mình bị bỏ rơi và quên lãng. Những câu thơ vô cùng xúc động thể hiện sự đa tài của tác giả.
Trong khổ thơ cuối tác giả đã dùng những từ ngữ rất thành kính trân trọng để bày tỏ nỗi lòng của tác giả với nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ”
Mở đầu bài thơ tác giả Vũ Đình Liên đều viết “mỗi năm hoa đào nở” cong trong khổ thơ kết thúc câu thơ có chút thay đổi nhưng kết cấu không hề thay đổi. năm nay đào vẫn nở, một màu xuân mới lại đến nhưng hình ảnh ông đồ thì không còn. Âm điệu câu thơ và toàn bài bỗng trầm xuống. Hoa đào vẫn cứ nở đều khoe sắc thắm, sinh động mỗi độ tết đến xuân về nhưng hình ảnh ông đồ nay còn đâu? Biến mất một giá trị văn hóa của nước ta. Trong câu thơ cuối có câu hỏi tu từ “ Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đây bây giờ?” thể hiện phần nào sự tiếc thương của tác giả với một nét đẹp văn háo của dân tộc.
Qua bài thơ “ông đồ” của Vũ Đình Liên đã khắc họa nhân vật ông đồ với nghệ thuật vô cùng tinh tế, giản dị nhưng thấm đẫm niềm xót xa của tác giả đối với một giá trị văn hóa của dân tộc.
I. Mở bài
- Giới thiệu hoàn cảnh xã hội Việt Nam cái thời tàn của nho học.
- Giới thiệu nhà thơ Vũ Đình Liên – nhà thơ của lòng nhân đạo ân tình, thủy chung.
- Giới thiệu bài Ông đồ một tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Đình Liên.
- Bài thơ đã để lại trong lòng người bao cảm xúc!
II. Thân bài
1. Nền suy đồi của Hán học giai đoạn 1930 – 1945
- Khi nền văn minh phương Tây bắt đầu xâm nhập nước ta. Thi cử theo lối khoa bảng đã bãi bỏ – các thầy đồ không còn giá trị, mất vị trí đứng trong xã hội.
- Ông đồ từ nghề cho chữ thành kẻ bán chữ.
- Trước “cái di tích tiều tuy đáng thương của một thời tàn” đã làm Vũ Đình Liên xúc động. Ông đã ngậm ngùi viết lên những trang thư để người đời suy ngẫm, khơi gợi bao tình cảm đã bị bỏ quên, giúp mọi người nhìn lại di sản của dân tộc đã một thời là nền văn hóa vinh quang của đất nước giờ bị bỏ quên một cách tàn nhẫn.
- Bài thơ vỏn vẻn 20 câu, tác giả dựng nên một hoàn cảnh trải đài theo thời gian với 3 cảnh ngộ của một con người: Ông đồ náo nức giữa khách xuân, ông đồ tư lự trong nỗi cô đơn vắng khách, ông đồ đã vắng bóng. Qua đó bộc lộ được tình cảm của tác giả – một người khách không vô tình.
2. Ông đồ – thời còn khách
- Thời điểm xuất hiện. Hoa đào nở – lúc xuân về – Ông đồ với mực tàu giấy đỏ bên đường phô" để viết câu đối thuê:
Mỗi năm hoa đào nở
Bên phố đông người qua.
- Đây là thời kì ông đồ còn được nguồn an ủi khi vị trí xã hội của nho học không còn. Mỗi năm ông xuất hiện một lần trong dịp Tết.
- Lời thơ tuy buồn nhưng vẫn còn chút niềm vui khi mọi người còn thây thích đôi câu đôi đỏ treo trong nhà. Đó là niềm vui nho nhỏ, là những phút huy hoàng còn sót lại:
Bao nhiêu người thuê viết
Như phượng múa rồng bay.
- Lúc này ông đồ như người nghệ sĩ đang trổ tài trước lòng mến mộ của mọi người. Đây là những giây phút lóe sáng của ngọn đòn sắp tắt, là những gì còn “sót lại của một thời tàn”.
3. Ong đồ trong nỗi cô đơn vắng khách
- Theo bước tiến của xã hội, con người đã có những thay đổi mới niềm vui còn sót lại của ông đồ thưa dần, xa dần…
Nhưng mỗi năm nỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
- Cảnh mọi người quây quần bên ông đồ để thuê viết đã không còn nữa – Ông đồ như một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái lỡ thời.
- Tâm trạng buồn bã cô đơn thấm dần từ lòng người sang cảnh vật. Không ai thuê viết “giấy đỏ buồn không thắm” và “mực đọng trong nghiên sầu” càng làm tăng nỗi buồn tủi cô đơn của ông đồ và thể hiện được sự cảm thông của tác giả.
- Ông đồ giờ “vẫn ngồi đây”, nhưng “qua đường không ai hay” một sự vô tình đến phũ phàng! Ông ngồi đây để chờ những hi vọng cuối cùng, nhưng không ai ban phát cho ông. Song giữa dòng người qua lại đó, vẫn còn một con người thương cảm cho ông và đã viết nên hai câu đặc sắc:
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
- Chiếc lá vàng rơi chấm dứt sự sinh sôi. Ông đồ ngồi trầm ngâm không buồn nhặt – Cộng hưởng với nỗi buồn của ông còn có cơn “mưa bụi” của đất trời. Một hình ảnh tượng trưng chất chứa nhiều tâm trạng, mưa bay ngoài trời hay mưa trong lòng người? Câu thơ tả cảnh mà ngụ tình gợi trong lòng người đọc một nỗi buồn nao khó tả.
4. Ông đồ không còn nữa
- Mùa xuân đến, hoa đào lại nở. Nhưng xuân năm nay không còn như xuân năm xưa bởi:
Năm nay hoa đào nở Không thấy ông đồ xưa.
- Xuân đã đến nhưng ông đồ đã vắng bóng, ông đã vĩnh viễn đi vào quá khứ. “Một con én không tạo được mùa xuân” thì một “ông đồ” cũng không làm xoay được cảnh đời. Ông đã không đủ kiên nhẫn để bám lấy cuộc sống đầy phủ phàng ấy nữa… Ông ra đi để lại sau lưng quá khứ huy hoàng của một thời vang bóng.
- Hai câu cuối là lời tự vấn của nhà thơ, là nỗi bâng khuâng thương tiếc ngậm ngùi:
Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?
Lời thơ như một nén nhang tưởng niệm những người xưa — Những người của muôn năm cũ đã tạo dựng nền văn hóa dân tộc. Đó là tinh hoa của dân tộc, là giá trị của đời sông tinh thần – giờ họ ở đâu?
- Ông đồ là hình tượng, là di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn tạ. Ông như ngọn đèn lóe sáng làm đẹp cho đời rồi vụt tắt trước những thay đổi của cuộc sông. Bài thơ với thể ngũ ngôn quen thuộc, lời thơ nhẹ nhàng tha thiết, chỉ vỏn vẹn có năm khổ thơ nhưng đà gói trọn một số phận, một lớp người, một thế hộ đã qua.
III. Kết bài
Ông đồ là một tác phẩm thành công xuất sắc của Vũ Đình Liên. Qua bài thơ lác íĩiả đã làm sông dậy trong lòng người một niềm thương cảm luyến tiếc không nguôi.
Đọc bài thơ ta cảm nhận được ở Vũ Đình Liên một con người đa sầu đa cảm dễ xúc động lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và luôn ân nghĩa thủy chung.