Diễn đàn>THƯ VIÊN KIẾN THỨC TIỂU HỌC - THCS>KHỐI LỚP 9>Văn Học 9>
CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2018 Chào mừng các bạn tham gia DIỄN ĐÀN KIẾN THỨC MỚI - DiendanKienthuc.com
HỌC SINH HỎI ĐÁP - CÙNG HỌC CÙNG CHIA SẺ - HƯỚNG TỚI GIẢNG ĐƯỜNG
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Thảo luận trong 'Văn Học 9' bắt đầu bởi Thandieu2, 11/2/13.
CHIA SẺ QUA FB CHIA SẺ QUA G+ Thandieu2Thành Viên D2KT.VNCác Mối Quan Hệ:
Độc Thân "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước gắn với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền Tây ThừaThiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến". Hãy làm rõ nhận định trên.
Bài làm
Bài thơ " Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại chiến khu Trị-Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mỹ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn vô cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà- ôi giã gạo nuôi bộ đội đánh Mỹ, để cảm xúc từ hiện thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt . Bài thơ "thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhẹ nhàng, mang giọng điệu nhịp nhàng, trìu mến".
Người mẹ trong thi ca từ sau Cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung tâm, có sự phát triển về tầm vóc, về chiều sâu tình cảm, tư tưởng hài hoà riêng chung. Từ những người mẹ trong thơ Tố Hữu thời kỳ kháng chiến chống Pháp như bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ Việt Bắc đến người mẹ trong "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên, chúng ta đã từng được cảm nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách mạng và kháng chiến. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, với tính chất quyết liệt, gian khổ, chúng ta từng gặp những vẻ đẹp như hình tượng người mẹ đào hầm giấu hàng sư đoàn dưới đất ở "Đất quê ta mênh mông" của nhà thơ Dương Hương Ly. Có thể nói, hình tượng người mẹ trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp những đặc trưng người mẹ quê hương - người mẹ chiến sĩ, tập trung những cảm xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm hồn của đồng bào dân tộc theo kháng chiến . Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt lại tựa đề là "Lời ru trên nương", bởi lẽ chính lời ru đã làm thành cấu tứ của bài thơ dẫn dắt ta vào một thế giới mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng của tấm lòng đồng bào dân tộc một lòng tin theo Đảng, thương con, thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản, thương đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi như muốn góp thêm bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Hình ảnh trong kháng chiến chống Pháp của nhà thơ Tố Hữu :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mỹ có những điểm tương đồng trong công việc. Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát từ nỗi nhớ mà được cất lên ngay giữa hiện thực chống Mỹ. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc "Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội". Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật với tứ thơ thật đẹp :
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều đặn an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không thi vị hóa mà bằng ngòi bút tả thực giúp người đọc nhận ra : mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy - bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ. Mỗi khúc ru hiện lên hình ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau : giã gạo, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng,...như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn cũng như niềm hân hoan được hòa vào những công việc kháng chiến. Không những thế, qua những hình ảnh này, ta còn hình dung một nhịp sống bình thản của những người dân và cán bộ chiến sĩ ở chiến khu chống Mỹ. Mặc dù, trong thực tế, đây là nơi hứng chịu rất nhiều bom đạn kẻ thù và luôn phải đương đầu với những cuộc hành quân lùng sục "tìm và diệt", càn quét hòng xoá sạch dấu tích của vùng chiến khu đầu mối Bắc Nam này. Cuộc sống khó khăn thiếu thốn đòi hỏi phải tự cung tự cấp, tăng gia sản xuất , bảo đảm nuôi dân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ giã gạo khiến ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong trong bài hát " Tiếng chày trên sóc Bom Bo" của cố nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao bọc, chăm chút bằng tất cả tình cảm yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh tàn bạo nào của kẻ thù có thể khuất phục được.
Gạo dùng để nuôi quân, mẹ lại lên tỉa bắp, cùng với a-kay. Đằng sau hành động đó lại ẩn chứa vẻ dẹp của sự hy sinh nhường cơm sẻ áo cho người cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại được cảm nhận bằng tình cảm thương mến của nhà thơ:
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất vả nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mông của vùng rừng núi tây Thừa Thiên như mở ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với công việc cần mẫn. Nhưng mẹ không hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ - em cu Tai đang ngon giấc. Với cách ví von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết của con ngừi với núi rừng, nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên tưởng thú vị giữa hạt bắp với con nằm trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác về độ nóng, độ chói mà trở thành hình tượng biểu trưng cho nguồn sống mạnh mẽ. Mặt trời của bắp đem lại hạt nảy mầm, hạt chắc. Mặt trời của mẹ - em cu Tai là hạnh phúc, nguồn sống của mẹ. Những chú bé Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ trở nên vạm vỡ săn chắc, ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho mẹ những đứa con khỏe mạnh của núi rừng. Hình tựơng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại những rung cảm thẩm mỹ đặc biệt.
Người đọc còn nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong hình ảnh mẹ con không cách xa : "Lưng đưa nôi và tim hát thành lời". Lời tim ngân nga suốt ba đoạn thơ thành điệp khúc dạt dào thương mến :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay...
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm xuất phát của lời ru chính từ tấm lòng mẹ thương a-kay vô bờ bến này ! Còn tình thương nào bình dị, gần gũi mà sâu sắc bằng tình mẹ thương con? Âm vang lòng mẹ cất thành lời ru, thành lời thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm. Với những chiều liên tưởng gắn bó trực tiếp với từng công việc của mẹ, bộc lộ vẻ đẹp rất giản dị mà cao cả. Mẹ thương a-kay ! - Rất ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ, đẹp đẽ - vẻ đẹp tâm hồn mẹ. Hơn thế nữa, đó là xuất phát điểm của những tình cảm thời đại : mẹ thương bộ đội. Có ranh giới nào của tình thương rất đầm ấm ấy không ?
Sự sống của a-kay cũng là tương lai của buôn làng. Bởi thế, cũng rất tự nhiên khi mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói. Cuộc sống của người Tà-ôi những năm chống Mỹ còn bao cơ cực, thiếu thốn nhưng sức mạnh của tình thương sẽ giúp người mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn tỉa bắp, gieo mầm sự sống với niềm mong mỏi thật bình dị : hạt bắp lên đều. Núi rừng, làng buôn và đứa con thân thương vô cùng với tâm hồn mẹ. Tình cảm yêu thương ấy còn thăng hoa trong những ước mơ về sự sống buôn làng. Đẹp thay và cũng dạt dào thương mến là lời thơ : "Con mơ cho mẹ ... hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều". Giấc mơ giản dị truyền sang em cu Tai còn chứa đựng niềm mong ước về tương lại của con :
Mai sau con lớn vung chày lún sân
.....Mai sau con lớn phát mười ka lư
Hình ảnh gắn với tương lai của con thật kỳ vĩ, như mang theo sức mạnh của các nhân vật sử thi huyền thoại. Ước vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức mạnh cộng đồng từ quá khứ đến hiên tại gắn với tinh thần cuộc kháng chiến lâu dài, vượt qua bao sóng gió thử thách.
Cảm hứng của khúc ru cuối gắn với hiện thực khốc liệt và khẩn trương của cuộc kháng chiến chống Mỹ, với nhịp sống chiến khu Trị Thiên. Hình ảnh của mẹ trong đoạn thơ này có sự thay đổi, không phải trong một dáng chênh chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm nhẫn nại gieo từng hạt giống mà rất dứt khoát, mạnh mẽ :
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Dáng vẻ con người được tô đậm qua hai động từ "đi" gợi tư thế chủ động với những công việc tiếp sức chiến đấu : chuyển lán, đạp rừng như hàm chứa ý thức tự hào của người Tà-ôi làm chủ vùng núi rừng của ta. Con người trong tư thế đối mặt với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất, giữ rừng. Kẻ thù với dã tâm "đuổi ta phải rời con suối", người Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung ! Không chỉ có mẹ, mà anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cuối. Những câu thơ hừng hực tinh thần bất khuất của người dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu chống Mỹ. Sự trưởng thành của mỗi con người từ nhận thức đến hành động đã được khẳng định bằng hai câu thơ thật khoẻ khoắn:
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Tinh thần của bao thế hệ người Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang a-kay, dạt dào một niềm tin, khẳng định dứt khoát con đường em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng. Đó là cơ sở cho ước mơ thật đẹp :
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do.
Trong tình cảm của người Tà-ôi cũng như của những đứa con chiến đấu chống Mỹ, Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng sáng chói của cách mạng, của chiến thắng. Bởi vậy, mong ước được gặp Bác luôn là cảm xúc thường trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là năm 1971. Bởi lẽ, chỉ có thống nhất, mẹ mới được ra với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước nguyện giành lại trọn vẹn non sông, thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tượng em cu Tai của tương lai là người Tự do của một đất ước hoà bình. Đó cũng chính là ước mong chung của nhân dân, của những người Việt Nam yêu nước.
"Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ"đã tạo được những cảm xúc đồng điệu với bao con người miền Nam anh dũng thời chống Mỹ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm tư của người dân tộc miền Tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thuỷ chung với cách mạng. Cảm xúc bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho ngời đọc những cảm nhận đặc biệt thương mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi. Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng , kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về nhân dân đất nước, cũng như niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Niềm tin ngày ấy giờ đây đã thành hiện thực. Em cu Tai ngày ấy giờ đay cũng đã trưởng thành và sống làm người tự do như niềm mong mỏi ngày nào tha thiết trong lời ru của mẹ. Nhưng lời ru ngày ấy vẫn còn sức vang ngân trong lòng bao thế hệ, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, con người Việt Nam.
Kháng chiến chống xâm lược bao giờ cùng là sự nghiệp của toàn dân. Nhưng tìm trong chính sử hoặc trong văn chương thành văn quá khứ thì chỉ thấy gương mặt của vua quan tướng tá, ít thấy bóng dáng người dân thường. Phải đến thời đại chúng ta, giai cấp vô sản lãnh đạo và lập nhà nước kiểu mới, hình ảnh người dân thường mới được thể hiện phong phú trong văn chương nghệ thuật. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, nhiều nhà thơ đã dựng được những đài kỉ niệm kì vĩ ghi lại những chiến công và lòng yêu nước của những con người vô danh ấy. Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm cững là một trong những đài kỉ niệm đó.
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971 là một trong những bài thơ hay của tác giả. Bài thơ viết về bà mẹ Tây Nguyên luôn luôn địu con trên lưng khi làm việc. Chọn bà mẹ đang nuôi con và đứa con ấp vú mẹ làm hai nhân vật tham gia đánh giặc, tác giả muốn nhấn mạnh tính toàn dân của cuộc kháng chiến. Bài thơ là sự phát triển song song hai mối tình cảm lớn: tình mẹ con và tình dân nước.
Hình ảnh người mẹ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn là hình ảnh muôn thủa của bà mẹ Việt Nam, thương con, chịu đựng, tần tảo nuôi dạy con cái nhưng cũng là hình ảnh của người mẹ rất mới: yêu nước, thương dân, bất khuất. Cách đây mấy chục năm, trong kháng chiến chống Pháp có một bà mẹ nằm trong ổ chuối khô nhớ thương con ngoài mặt trận trong thơ Tố Hữu đã làm cho bao nhiêu người xúc động. Với ba khúc ca trong bài thơ của mình Nguyễn Khoa Điềm đã diễn tả tình yêu con và khát vọng của người mẹ dân tộc Tà-ôi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, từ đó giúp người đọc thấy được lòng yêu quê hương, đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong thời kì lịch sử này.
Ở khúc ca thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội, giấc ngủ em nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất vả của mẹ?
“Nhịp chày em nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”.
Tiêng ru con “nghiêng” theo nhịp chày làm cho giấc ngủ em cu Tai cũng “nghiêng” theo. Con như đang chia sẻ sự vất vả của mẹ. Má em cũng “nóng hổi” vì bao mồ hôi mẹ tuôn rơi. Hàng loạt hình ảnh hoán dụ (mồ hôi, má, vai, lưng, tim) được sử dụng rất “đắt” thể hiện trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo. Lưng mẹ là chiếc nôi để con lớn lên. Tim mẹ dạt dào tình mẫu tử, đã “hát thành lời”.Hạt gạo hậu phương là “hạt vàng làng ta”; hạt gạo của mẹ nặng tình nghĩa, rất đáng tự hào:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân...
Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ con và hội tụ lại trong tình yêu thương sâu sắc những anh bộ đội. Khúc ca thứ hai là tiếng hát ru khi mẹ đi tỉa bắp trên núi Ka-lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ bến của mẹ đối với con được thể hiện bằng những hình ảnh độc đáo:
“Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka~lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”.
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi; Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”. Hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực, mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, làm cho cây ngô thêm tươi tốt, bắp to, hạt mẩy.
Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là một ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quý con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ. Hai câu thơ hai hình ảnh tôn nhau lên, đổi ý với nhau đã làm nổi bật tình yêu thương sâu sắc là niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con.
Lời ru của người mẹ Tà-ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con yêu quý của mình. Lòng thương yêu con của người mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương dân làng - những người lao động nghèo đói:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Khúc ca thứ ba nhịp điệu vang lên dồn dập. Đó là lúc “Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối”, dồn đồng bào Tà-ôi vào chỗ chết, mẹ địu con khi đang “chuyển lán” và “đạp rừng”. Khi cả gia đinh đều ra trận:
“Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn”
Giặc Mĩ tàn bạo đã tàn phá làng mạc của họ, đạp đổ ngôi nhà, tổ ấm của mẹ con họ. Nhưng lũ giặc Mĩ không khuất phục được người mẹ. Khúc ca thứ ba là khúc ca chiến đấu; “Giặc đến nhà đàn bà cùng đánh” là truyền thống anh hùng của người phụ nữ Việt Nam. Ở đây, người mẹ địu con ra trận, đi tiếp tế, đi tải đạn vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
" Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Cọn mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người Tự do”
Đó là giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no, hạnh phúc, giấc mơ chiến thắng.
Tiếng hát ru con của bà mẹ Tà-ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy cất lên trong trái tim người mẹ. Tình mẫu tử thì có thể nói mãi không hết. Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng nói ít nhưng để ta thấy được cái chất của tình mẹ ấy: tha thiết đằm thắm như mọi tình mẹ con truyền thống Việt Nam, nhưng lại có cái cao rộng của thời đại cách mạng. Bà mẹ Tà-ôi là một bà mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hòa quyện vào nhau trong tấm lòng của bà mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.
Theo lời ru (và theo tình yêu thương của mẹ), theo bước chân của bà mẹ Tà-ôi, không gian cũng được mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka-lưi (khi mẹ tỉa bắp) rồi đến những rừng, những suối (khi mẹ chuyển lán, đạp rừng). Và ước mơ khát vọng của mẹ gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng một lúc một lớn dần: từ “con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”...; từ mong muốn “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến ao ước “Mai sau con lớn phát mười Ka lưi” cuối cùng bùng lên thành khát vọng cháy bỏng
“Mai sau con lớn làm người Tự do"
Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” xứng đáng là bài ca lòng mẹ Việt Nam. Một đứa con chỉ có thể lớn lên bằng dòng sữa mẹ, bằng lời ru, tình thương của mẹ. Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là tượng đài tráng lệ về bà mẹ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Nó nhắc nhớ mỗi chúng ta ghi sâu trong lòng tình cảm kính yêu và biết ơn mẹ hiền.