Văn bản ngữ văn 11

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
vũ kim oanh

Hướng dẫn soạn bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu

 

Đinh Tuấn Việt
23 tháng 2 2016 lúc 9:48

CÂU 1.

Bố cục bài thơ : 3 phần

-         Phần 1 : 13 câu thơ đầu : Là sự thể hiện tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

-         Phần 2 : 16 câu tiếp : sự băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước quy luật của tạo hóa.

-         Phần 3 : còn lại : lời giục giã và tình yêu cuộc sống vội vàng của nhà thơ.

 

Câu 2. Đoạn thơ đầu : tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ

·        Bài thơ mở đầu với 4 câu thơ  5  chữ.

-          nghệ thuật điệp từ và điệp cấu trúc cú pháp.

-         Khẳng định một ước muốn táo bạo, mãnh liệt ( ngự trị thiên nhiên – đoạt quyền tạo hóa).

-         Ý tưởng của Xuân Diệu mang sự mới lạ, độc đáo, in đậm sự cách tân nghệ thuật của thơ mới và tính sáng tạo của nhà thơ.

=>Bốn câu đầu gói gọn cảm xúc và ý tưởng của bài thơ.

 

·        Bức tranh thiên nhiên :

-         Hình ảnh : ong, bướm, hoa, lá, yến anh và ánh bình minh.

=>Tất cả đều đang trong trạng thái căng tràn, viên mãn nhất : ong bướm – tuần tháng mật ; hoa – đồng nội xanh rì ; lá – cành tơ lất phất…Tất cả đều có đôi có lứa xoắn xuýt bên nhau như mời gọi.

 

-         Các biện pháp nghệ thuật :

+ Điệp từ «  này đây » => điệp khúc, vang lên như giục giã người đọc xốn xang theo từng câu thơ.

+ biện pháp liệt kê tăng tiến với các hình ảnh thơ : «  ong bướm », «  hoa của đồng nội », «  lá của cành tơ »…

+ cách dùng từ láy và từ ghép độc đáo : phơ phất, xanh rì, tuần tháng mật…

+ Nghệ thuật so sánh độc đáo : tháng giêng – cặp môi gần.

=>Hình ảnh so sánh độc đáo với lối diễn đạt mới lạ đã cho thấy quan điểm của nhà thơ về mùa xuân, cuộc sống, con người. Cái đẹp bắt nguồn từ sự tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn. .. Nhà thơ đã vật chất hóa khái niệm thời gian, bằng một hình ảnh cụ thể, hữu hình «  cặp môi gần ». Câu thơ không chỉ gợi hình mà còn gợi hương thơm, vị ngọt khiến người đọc đắm say ngây ngất.

 

·        Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống. Với nhịp thơ gấp gáp tạo nên cảm giác ngây ngất sung sướng của nhà thơ. Nó như là sự hối thúc, giục giã khiến mọi người bị cuốn vào cái guồng quay khẩn trương của tạo hóa để  tận hưởng thiên đường nơi trần thế.

 

Câu 3. Đoạn thơ 2 : quan điểm của nhà thơ về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với nỗi băn khoăn của tác giả trước cuộc đời.

-         Mùa xuân là thời đẹp nhất của thiên nhiên và con người. Mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ gắn liền với tình yêu.

-         Xuân Diệu cho thấy mùa xuân cũng chính là dấu hiệu bước chuyển dời thời gian đang xa dần.

-         Tuổi trẻ và tình yêu phải gắn liền với màu xuân. Và cũng theo quy luật của thời gian, tạo hóa, tuổi trẻ cũng không tồn tại vĩnh hằng.

-         Tuổi trẻ chẳng bao giờ trở lại, nó không tuân theo vòng tuần hoàn của vũ trụ.

=>Quan điểm hoàn toàn mới của Xuân Diệu về thời gian. Thời gian tựa nhưu một dòng chảy xuôi chiều, một đi không bao giờ trở lại. Tác giả đã lấy sinh mệnh con người làm thước đo thời gian, lấy thời gian hữu hạn của con người để làm thước đo vũ trụ.

 

-         Sở dĩ ông cảm thấy băn khoăn day dứt  ngay trong sug sướng rạp rực vì ông nhận ra thời gian, mùa xuân và tuổi trẻ đang đến nhưng cũng chính là lúc nó trôi đi và không bao giờ trở lại.

-         Cảm nhận về thời gian luôn thường trực trong tâm hồn thi sĩ. Ông cảm nhận rất rõ những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời. Ông xót xa nhận ra rằng tát cả những tươi đẹp của màu xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu sẽ ra đi không bao giờ trở lại.

=>Đoạn thơ cho thấy quan niệm về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ của nhà thơ. Đồng thời ta còn thấy được một Xuân Diệu khao khát đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng luôn cảm thấy lo sợ.

 

Câu 4. Đoạn thơ cuối : khát vọng sống, khát vọng yêu thương, cuồng nhiệt đến cháy bỏng.

-         Hình ảnh thơ tươi mới và tràn đầy sức sống. Đó là một thiên nhiên quyến rũ, tình tứ. Cảnh sắc lôi cuốn con người như muốn tan ra, muốn hòa mình vào thiên nhiên để tận hưởng : sự sống mơn mởn, cánh bướm với tình yêu…

-         Ngôn từ : sử dụng những động từ mạnh : ôm, riết, thau, cắn…

-         Nhịp điệu thơ được tạo nên bởi những câu dài, ngắn xen kẽ. Cùng với điệp từ «  ta muốn » => nhịp thơ sôi nổi.

-         Hình ảnh mởi mẻ và sáng tạo ( câu cuối).

=>Các hình ảnh và điệp từ …lột tả tận cùng sự cuống quýt, vội vàng của nhà thơ.

Đỗ Mạnh Hữu
23 tháng 2 2016 lúc 11:15

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Xuân Diệu (1916 - 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, bút danh khác là Trảo Nha. Quê cha của Xuân Diệu ở Hà Tĩnh nhưng ông sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn.

Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho, sau đó ông ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn là thành viên của Tự lực văn đoàn. Trước cách mạng, thơ Xuân Diệu là tiếng nói thiết tha với cuộc đời. Sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và giàu tính thời sự.

2. Tác phẩm

Vội vàng được in trong tập Thơ thơ (1938) là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám. Bài thơ thể hiện rất rõ ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới, mang đạm bản sác riêng của hồn thơ Xuân Diệu. Vội vàng là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của đời mình nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một tâm hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.

II. Trả lời câu hỏi

1. Bài thơ là dòng cảm xúc mãnh liệt, dạt dào, tuôn trào nhưng vẫn tuân theo mạch luân lí, có bố cục chặt chẽ. Bài thơ có thể được chia thành ba đoạn:

- Đoạn 1 (13 câu thơ đầu): Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế thiết tha

- Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi băn khoăn về sự  ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi quá nhanh chóng của thời gian.

- Đoạn 3 (còn lại): Lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, của vũ trụ.

2. Thời gian của tự nhiên thì luôn tuân thủ theo quy luật vận động bất biến. Nhưng quan niệm về thời gian, sự cảm nhận về thời gian thì ở mỗi thời đại và mỗi cá nhân lại có thể có những nét khác nhau.

Ở Xuân Diệu và nhất là trong Vội vàng, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới, một cảm nhận mới về thời gian. Thời gian thật sự khắc nghiệt, đời người có hạn và tuổi xuân ngắn ngủi.

                         Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua

                         Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Nhà thơ đã lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của đời người, thậm chí lấy khoảng thời gian quý giá nhất của mỗi cá nhân là tuổi trẻ để làm thước đo thời gian. Lời thơ được cấu trúc thành một cuộc tranh biện, theo đó nhà thơ khẳng định dẫu vũ trụ có thể vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn, nhưng "tuổi trẻ chẳng hai lần nhắm lại".

                        Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

                         Lòng tôi rộng, nhưng lượng đời chứ cứ chật

                         Không cho dài thời trẻ của nhân gian

                         Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn.

                         Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Nhìn thấu sự trôi chảy quá nhanh chóng, một đi không trở lại của thời gian nên cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát, mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, chia lìa.

Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu, xét đến cùng là do ý thức sâu sắc về "cái tôi" cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Trong hoàn cảnh bình thường của đất nước, đây là một quan niệm và thái độ sống tích cực, thấm đượm tư tưởng nhân văn.

3. Vội vàng cuống quýt níu giữ thời gian, khát khao sống dạt dào cảm xúc với thời trai trẻ, Xuân Diệu đã phát hiện ra có một thiên đường ngay trên mặt đất này, không xa lạ mà rất đỗi thân quen, ở ngay tầm tay của mỗi chúng ta. Hình ảnh thiên nhiên và sự sống được Xuân Diệu gợi lên vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ, tình tứ:

                       Của ong bướm này đây tuần tháng mật

                       Này đây hoa của đồng nội xanh rì

                       Này đây lá của cành tơ phơ phất...

Qua cách miêu tả hình ảnh thiên nhiên, Xuân DIệu đã thể hiện một quan niệm mới về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Đó lầ một quan niệm mới, tích cực, thấm đượm tinh thần nhân văn.

4. Đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu của đoạn thơ cuối bài:

- Hình ảnh trong đoạn thơ cuối gần gũi, quen thuộc mà tươi mới, giàu sức sống, đầy quyến rũ và tình tứ. Đó là những hình ảnh rất táo bạo, đầy cảm giác và có tính sắc dục.

- Ngôn từ của bài thơ tự nhiên, gần với lời nói thường, nhưng đã được nâng lên thành nghệ thuật Cảm xúc dạt dào, mãnh liệt đã tạo nên những làn sóng ngôn từ vừa đan vào nhau, vừa cộng hưởng với nhau theo chiều tăng tiến.

- Nhịp điệu của đoạn thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

 

 

Bùi Hà Chi
26 tháng 2 2016 lúc 9:11

I. Tìm hiểu: 

 1. Tác giả: Xuân Diệu (1916 – 1985)

  a. Cuộc đời, sự nghiệp văn học của Xuân Diệu.

+ Xuân Diệu ( 1916 – 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, bút danh khác là Trảo Nha. Quê cha ở Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bình Định, lớn lên ở Quy Nhơn. Xuân Diệu xa gia đình từ nhỏ và sống ở nhiều nơi. Nỗi miền đất có những ảnh hưởng nhất định đến hồn thơ ông.

+ Trước cách mạng, Xuân Diệu là một nhà thơ mới “ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Sau cách mạng, Xuân Diệu nhanh chóng hoà nhập, gắn bó với đất nước, nhân dân và nền văn học dân tộc.

+ Xuân Diệu để lại một sự nghiệp văn học lớn. Ông là một cây bút có sức sang tạo dồi dào, mãnh liệt, bền bỉ.

+ Xuân Diệu từng là uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III, là Viện sĩ thong tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức. Xuân Diệu được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

b. Những nhận xét rút ra từ cuộc đời, sự nghiệp của Xuân Diệu.

+ Xuân Diệu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, một nhà thơ mới “ mới nhất trong các nhà thơ mới”.

+ Thơ Xuân Diệu thể hiện một hồn thơ khát khao giao cảm với đời – cuộc đời hiểu theo nghĩa chân thật và trần thế nhất.

+ Hồn thơ Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian. Xuân Diệu là nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu. Ông được mệnh danh là “ông Hoàng thơ tình” của Việt Nam. 

2. Xuất xứ:

+ Vội vàng được in trong tập Thơ thơ, xuất bản năm 1938

+ Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biệu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi trong thơ mới nói chung, thơ Xuân Diệu nói riêng, đồng thời in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu (“thiết tha, rạo rực, băn khoăn”- Hoài Thanh) và tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo trong nghệ thuật thơ ông.

II. Đọc- Tìm hiểu văn bản: 

1.Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ:

Bài thơ mở đầu bằng 4 câu thơ 5 chữ, kiểu câu khẳng định mạnh cùng với lối điệp từ ngữ, điệp cấu trúc câu thơ để khẳng định một ước muôn táo bạo, mãnh liệt: muốn ngự trị thiên nhiên, muốn đoạt quyền tạo hoá, Sắc màu, hương thơm là hương sắc của thiên nhiên, rộng hơn là của cuộc đời. Ý tưởng của Xuân Diệu thật mới lạ, độc đáo, in dấu ấn những cách tân nghệ thuật của thơ mới và dấu ấn cá tính sang tạo của Xuân Diệu rất rõ rệt.

Ý tưởng có vẻ như “ngông cuồng” của thi nhân xuất phát từ một trái tim yêu cuộc sống đến tha thiết, say mê. Những động từ “ tắt” (nắng), “buộc” (gió) ngỡ như vô lí nhưng lại rất Xuân Diệu. Mọi giác quan của thi nhân như đang run lên để đón nhận mà hưởng thụ hương sắc trần gian.

Bốn câu thơ năm chữ với lối diễn đạt riêng tưỡng như không ăn nhập với bài thơ nhưng đọc hết bài, đặt trong cái logic: muốn ôm, riết, thâu,… mới thấy đây chỉ là hành động mở đầu cho những ham muốn, vội vàng. Bốn câu thơ gói gọn cảm xúc và ý tưởng chủ đạo của cả bài thơ nên có giá trị như một lời dề từ.

Nhà thơ giãi bày cho cái ước muốn tưởng như “ngông cuồng” của mình bằng một bức tranh tràn đầy sinh lực, ngồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân.

Bức tranh thiên nhiên có đủ: ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ. Tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất: “ tuần tháng mật” của ong bướm; “ hoa của đồng nội xanh rì”; “ lá của cành tơ phơ phất”; “ khúc tình si” của yến anh; hang mi chớp ánh bình minh của mặt trời,… Tất cả hiện hữu có đôi, có lứa, có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.

Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chime ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng “cặp mắt xanh non” của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đám say, ngây ngất. Điệp khúc “này đây” cùng với phép liệt kê theo chiều tăng tiến, cách dung từ láy (phơ phất), từ ghép (xanh rì) và những cụm từ “ tuần tháng mật”, “ khúc tình si” hoà vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm xúc sung sướng, ngây ngất vừa có gì như là sự hồi thúc, giục giã khiến cho ai đó dù vô tình cũng không thể làm ngơ, không thể quay lưng. Cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, hãy tận hưởng, tận hưởng và tận hưởng,…

Thật bất ngờ, nhà thơ như say khi thốt lên:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Câu thơ có ý nghĩa bao quát cả đoạn và có lối diễn đạt độc đáo, mới lạ. Với Xuân Diệu, một đời đẹp nhất là tuổi trẻ cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân và mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn,… Xuân Diệu đã vật chất hoá một khái niệm thời gian (tháng giêng) bằng “cặp môi gần”. Xuân Diệu còn truyền cho người đọc bằng các tính từ “ngon”, “gần”. Câu thơ của Xuân Diệu không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.

2. Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời:

Mạch thơ đang cuồn cuộn bỗng nhiên chùng hẳn xuống. Câu thơ gãy làm đôi bởi dấu chấm đặt ở giữa:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

Nhà thơ bỗng “hoài xuân” – nhớ xuân, tiếc xuân khi mùa xuân chỉ vừa mới bắt đầu. Cảm thức về thời gian luôn thường trực trong tâm hồn thi nhân. Xuân Diệu cảm nhận rất rõ những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời và cùng với thời gian, những gì đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu rồi sẽ ra đi không trở lại.

Xem phân tích bài thơ Vội vàng số 1 tại đây
Xem phân tích bài thơ Vội vàng số 2 tại đây

Những từ “xuân”, “tôi”, “tuổi trẻ” cứ trở đi trở lại đan cài vào nhau trong hang loạt những mâu thuẫn: “ đường tới” – “đương qua”; “còn non” – “sẽ già”; “lòng tôi rộng” – “lượng trời cứ chật”; “ xuân vẫn tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” tạo thành nổi day dứt, niềm tiếc nuối khôn nguôi.

Các tiếng: “đương qua”, “sẽ già”, “hết”, “mất”, “không cho”, “chẳng còn”, “rớm vị chia phôi”, “than thầm tiễn biệt”, “phải bay đi”, “bỗng dứt tiếng”, “độ phai tàn”,… như day cứa vào trái tim vốn rất nhạy cảm, yêu đời, khát khao giao cảm với đời nhưng cứ phải nghĩ, không thể không nghỉ đến cái hữu hạn của đời người; cứ phải lo, không thể không lo đến một ngày nào đó đời người vụt tắt như ngọn nến. Hơn ai hết, Xuân Diệu là người ý thức rất rõ một điều: tuổi trẻ một đi không trở lại.

Đoạn thơ sử dụng rất nhiều các phụ từ và từ quan hệ: “nghĩa là”, “mà”, “nhưng”, “làm chi”, “vẫn”, “nếu”, “chăng”, “chẳng còn”, “nên”,… Các từ này có giá trị biểu đạt “ lí luận của trái tim”. Trái tim tự đặt diều kiện, giả thiết, tự biện luận để rồi tự kết luận. Lời kết luận cuối cùng là lời than thở tưởng chừng như tuyệt vọng:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữ…

Xuân Diệu là thế: khao khát đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng luôn cảm thấy bơ vơ và có lúc hoảng sợ. Có điều nỗi tuyệt vọng của Xuân Diệu giống như nỗi buồn của giọt sương không được cháy hết mình dưới nắng mặt trời. Xuân Diệu không những không làm cho người ta tuyệt vọng mà bằng một con đường riêng. Xuân Diệu đã đốt lên tình yêu cuộc sống cho con người.

3. Khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả.

– Hình ảnh thơ: sự sống mơn mởn, mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều, non nước, cỏ, cây, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng. Đó là những hình ảnh tươi mới, đầy sức sống.

– Ngôn từ: ôm, riết, say, thâu, chuếch choáng, đã đầy, no nê, cắn. Đó là những động từ và tính từ mạnh được dung với mức độ tăng tiến dần.

– Nhịp điệu thơ được tạo nên bởi những câu dài , ngắn xen kẽ với nhiều điệp từ có tác dụng tạo nhịp và ngắt nhịp nhanh, mạnh (“ta” ba lần; “và” ba lần; “cho” ba lần). Những yếu tố trên đã tạo nên nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

– Hình ảnh mới mẻ, độc đáo nhất: Bài thơ nói chung và đoạn thơ cuối nói riêng có nhiều hình ảnh mới mẻ, độc đáo nhưng hình ảnh có tính lien kết logic “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” và “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” là hình ảnh độc đáo hơn cả.

Điệp khúc “ta muốn” trở lại với âm hưởng dồn dập hơn, khẩn thiết hơn trở thành cao trào của khát vọng sống vô cùng táo bạo, mãnh liệt. Cái tôi tham lam như muốn ngự trị, ôm choàng tất cả. Cùng với điệp khúc “ta muốn” là các động từ mạnh cứ tăng dần về mức độ: “ôm” – “riết” – “say”- “thâu”, “cắn”. Trạng thái “ vội vàng” ấy lại được bồi them bởi các tính từ tuyệt đối để lột tả đến tận cùng sự cuống quýt, vồ vập. Câu kết của bài thơ thật bất ngờ:

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Thật là một sự mê say đến cuồng điên. Kiểu giao cảm này chỉ Xuân Diệu mới có, một kiểu giao cảm khoẻ mạnh, cường tráng của một trái tim căng đầy sức sống và một tâm hồn ngập tràn tình yêu.

III. Tổng kết:

– Giá trị nội dung: Quan niệm sống mới mẻ của tác giả là yêu cuộc sống trần thế xung quanh ta và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì cuộc sống ban tặng. Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người. Đó lá quan niệm sống rất “người”, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.

– Giá trị nghệ thuật: Những cách tân của thơ mới được thể hiện một cách sáng tạo và táo bạo qua ngòi bút Xuân Diệu từ cảm hứng, ý tưởng thơ cho đến hình ảnh, nhịp điệu, ngôn từ,… Tất cả đều in dấu ấn phong cách Xuân Diệu.


Các câu hỏi tương tự
Kim Ngân
Xem chi tiết
Đặng Thị Phương Anh
Xem chi tiết
Ha My
Xem chi tiết
Ha My
Xem chi tiết
Ha My
Xem chi tiết
Võ Thị Kim Cành
Xem chi tiết
Đinh Công Duy
Xem chi tiết
Trương Tú Anh
Xem chi tiết
Trần Thị Dung
Xem chi tiết