Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 7
Số lượng câu trả lời 4
Điểm GP 3
Điểm SP 12

Người theo dõi (0)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Sĩ phu Việt Nam phải noi gương Nhật Bản, vì:

- Năm 1868, Nhật Bản đã tiến hành cải cách Minh Trị thành công, trở thành cường quốc tư bản.

- Năm 1905, Nhật Bản đánh bại nước Nga Sa hoàng.

- Nhật là nước đồng chủng, đồng văn với Việt Nam.

Sĩ phu Việt Nam cứu nước phải gắn liền với Duy tân, vì:

- Những chuyển biến về kinh tế - xã hội Việt nam:

+ Công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp làm nảy sinh những nhân tố mới. Ở Việt nam, đầu thế kỉ XX, xuất hiện nhiều thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, thành thị mọc lên. Nhiều cơ sở công nghiệp ra đời.

+ Cơ cấu xã hội biến động. Một số giai tầng mới xuất hiện: Giai cấp công nhân, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản.

+ Các tầng lớp xã hội này, cùng với bộ phận sĩ phu đang trên con đường tư sản hóa, đã đóng vai trò khá quan trọng trong việc tiếp thu những luồng tư tưởng cách mạng mới, để dấy lên một cuộc vận động yêu nước tiến bộ, mang màu sắc dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX.

- Ảnh hưởng trào lưu tư tưởng tư sản từ bên ngoài vào:

+ Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, những thông tin về tình hình chính trị thế giới, trước hết từ Nhật Bản, Trung Quốc, xâm nhập vào Việt Nam.

+ Phong trào cải cách chính trị - văn hóa ở Trung Quốc của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu; tư tưởng cách mạng Pháp của Ru – xô, Mông-te-xki-ơ, Vôn-te; Cách mạng Tân hợi 1911 ở Trung Quốc… ảnh hưởng đến tư tưởng các sĩ phu Việt Nam.

Nét mới trong con đường cứu nước của các sĩ phu.

- Ý thức về dân chủ, dân quyền, khái niệm dân và nước gắn với nhau.

- Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải biết kết hợp nhiều biện pháp: đoàn kết dân tộc, chuẩn bị thực lực, vận động giúp đỡ từ bên ngoài, tiến hành cải cách sâu rộng.

Câu trả lời:

Sự hoàn thiện của tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến nước ta trong các thế kỉ X-XV:

*Thời Ngô, Đinh – Tiền Lê: Thời kì bước đầu xây dựng nhà nước quân chủ sơ khai

- Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, thành lập chính quyền mới. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều Đinh, đặt tên nước là Đại Cổ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Một nhà nước quân chủ sơ khai ra đời, bao gồm ba ban: võ ban, văn ban và tăng ban.

- Nhà Tiền Lê củng cố hơn nữa bộ máy nhà nước trung ương, chia nước làm 10 đạo.

- Nhà nước độc lập theo chế độ quân chủ chuyên chế được xây dựng nhưng vẫn còn sơ khai.

*Thời Lý, Trần, Hồ: Thời kì từng bước hoàn chỉnh bộ máy thống trị của nhà nước phong kiến độc lập.

- Các triều đại kế tiếp: Lý, Trần, Hồ ra sức hoàn chỉnh bộ máy thống trị.

- Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi lại tên nước thành Đại Việt.

- Chính quyền trung ương từng bước hoàn chỉnh. Vua đứng đầu đất nước, nắm mọi quyền hành cao nhất. Giúp vua trị nước có Tể tướng, các đại thần, các chức hành khiển. Ngoài ra, còn có các chức quan trông nom sản xuất nông nghiệp, hệ thống đê điều.

- Đất nước được chia thành nhiều lộ do các hoàng tử (thời Lý) hay An phủ sứ (thời Trần, Hồ) cai quản. Dưới lộ là phủ, huyện, châu, hương.

- Ban đầu quan lại chủ yếu được tuyển chọn từ con em các gia đình quý tộc hoặc con cháu quan lại. Về sau, thi cử là nguồn tuyển chọn chính.

- Nhà nước độc lập theo chế độ quân chủ chuyên chế từng bước được hoàn chỉnh; tuy nhiên, mức độ chuyên chế chưa cao.

*Thời Lê sơ: Thời kì nhà nước quân chủ Đại Việt đạt đến đỉnh cao

- Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, sáng lập ra nhà Lê, đặt tên nước là Đại VIệt. Nhà nước mới được xây dựng theo mô hình thời Trần, Hồ.

- Vào những năm 60, đất nước đã ổn định. Vua Lê Thánh Tông đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính.

- Ở trung ương, các chức Tể tướng, Đại hành khiển bị bãi bỏ. Sáu bộ được thành lập, trực tiếp cai quản mọi việc và chịu trách nhiệm trước vua. Ngự sử đài có quyền hành cao hơn trước.

- Ở địa phương: chia lại cả nước thành 13 đạo thừa tuyên. Ở mỗi đạo thừa tuyên đều có ba ti phụ trách các lĩnh vực, dân sự và kiện tụng. Xã vẫn là đơn vị hành chính cơ sở.

- Quan lại được tuyển chọn chủ yếu qua giáo dục, khoa cử.

- Cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông đã khiến quyền lực của chính quyền trung ương được tăng cường. Chế độ quân chủ chuyên chế đạt đến đỉnh cao.

Câu trả lời:

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Huy Cận (1919 - 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tình Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê rồi vào Huế học trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông rồi tham gia mặt trận Việt Minh (1941). Sau Cách mạng, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, từng giữ nhiều trọng trách khác nhau, đồng thời có những đóng góp quan trọng trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.

Thơ Huy Cận luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Nó tất nhiên là cái điệu chung của thơ  mới, song nỗi buồn trong thơ Huy Cận có sắc thái riêng.

2. Tác phẩm

Toàn bộ Tràng Giang đều thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai  khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh. Ở bài thơ ngày, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc họa một bức tranh đầy đủ, hài hòa qua các khổ thwo, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.

II. Trả lời câu hỏi

1. Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn đây chính là nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài".

2. Âm hưởng chung của bài thơ là âm điệu buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn.

3. Bài thơ tạo dựng được một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang vô biên, đậm chất Đường thi. Chất liệu để tạo nên bức tranh đó là hệ thống các hình ảnh ước lệ thường được sử dụng trong thơ cổ.

Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề. "Tràng giang" chứ không phải trường giang mặc dù hai từ đều có chung một nghĩa. Nhờ cách điệp vần ang, tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ, đặc biệt nó khơi gợi được xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian.

Trong khổ thơ thứ hai, chính Huy Cận đã thừa nhận: ở trong câu "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu", ông đã học chữ "đìu hiu" trong bản dịch Chinh phụ ngâm (Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò). Hơn thế, các hình ảnh đối lập, hình ảnh "chợ chiều vãn" gợi cái buồn da diết, không gian vắng lặng, cô tịch rất cổ điển.

Ở khổ thơ thứ ba và khổ cuối đều có thể tìm thấy những nét gợi nên hình ảnh bức tranh thiên nhiên trường gặp trong thơ xưa. Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những âm hưởng kì lạ do tác giả chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy và cách ngắt nhịp truyền thống. Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở hai câu thơ cuối. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ đến quê hương - Hoàng Hạc Lâu, Huy Cận không cần có khói sóng - tức không cần cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn.

Sự hòa quyện của hai hệ thống hình ảnh vừa cổ điển vừa gần gũi, thân thuộc nêu trên tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp độc đáo: đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà quen thuộc.

4. Trước Huy Cận, đã có không ít các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió qua thơ văn như Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải, Thề non nước của Tản Đà... Trước Tràng giang, Huy Cận cũng đã từng viết về nỗi buồn sông núi- nỗi buồn của người dân thuộc địa khi giang sơn bị mất chủ quyền. Ở bài thơ này, nỗi buồn này, nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vắng và niềm thiết tha với thiên nhiên tạo vật ở đây cũng là niềm thiết tha với quê hương đất nước.

5. Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật

- Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hòa. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn/ vô hạn; nhỏ bé/lớn lao; không/có...

- Sử dụng thành công các loại tự láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót...), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp...). Các biên pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh...