Bình Ngô đại cáo được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời còn vang mãi, là áng văn chính luận mẫu mực và hơn tất cả nó còn là bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc. Tác phẩm được Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi viết vào năm 1428, là tác phẩm văn học có giá trị to lớn, thể hiện lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, sự kiêu hùng dũng mãnh của nhân dân ta trong cuộc chiến chống quân Minh, đồng thời cũng phản ánh sự tàn bạo của quân thù khi giày xéo lên mảnh đất quê hương.
Cả bài cáo chia làm 4 phần chính được đánh số số thứ tự, mỗi phần bao hàm một nội dung, nhưng bao quát nhất vẫn là tấm lòng yêu nước thật nồng nàn và sâu sắc, cùng ý chí tự cường của nhân dân ta.
Ở phần đầu tiên, Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa, để khẳng định nền độc lập của dân tộc đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay, đồng thời nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Những lý luận, luận điểm được Nguyễn Trãi đưa ra một cách thật xác đáng, có dẫn chứng cụ thể. Trước hết ở mệnh đề tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi cho rằng "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", cần phải bảo vệ cuộc sống của nhân dân, cho nhân dân được sống trong thanh bình hạnh phúc, yên ổn làm ăn. "Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", xuất phát từ điển cố trong kinh thư, là bậc quân vương thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, trừ hại cho dân. Từ đó, ta thấy được quan điểm mới mẻ và tiến bộ của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, là yêu hòa bình. Lần đầu tiên nhân dân được xuất hiện trong một bộ văn kiện quan trọng, tầm vóc lịch sử của dân tộc, đây là một bước tiến lớn trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có."
Tiếp đến, tác giả khẳng định sự tồn tại có độc lập chủ quyền của Đại Việt thông qua 5 yếu tố: Có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, có truyền thống lịch sử riêng, chủ quyền riêng "mỗi bên xưng đế một phương". Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về một quốc gia, dân tộc, tiến một bước dài hẳn so bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên là Nam quốc sơn hà. Ông cũng sử dụng nhiều từ ngữ như: "Từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác", đây là những từ ngữ mang sắc thái khẳng định nhằm nhấn mạnh một chân lí không thể dời đổi là nước Đại Việt ta là đất nước có chủ quyền độc lập.
Sang đến đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi đi vào vạch rõ những tội ác của giặc Minh, ông đứng trên lập trường của dân tộc, trên lập trường nhân nghĩa để tố cáo sự tàn bạo của kẻ thù. Trước hết, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc để tố cáo âm mưu cướp nước của giặc Minh, dùng những từ ngữ "nhân" "thừa cơ" để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà Minh "phù Trần diệt Hồ" để che mắt nhân dân ta, nhằm tràn sang xâm lược. Rồi Nguyễn Trãi lại đứng trên lập trường nhân bản, nhân nghĩa, đứng về quyền sống của người dân vô tội để tố cáo chủ trương cai trị phản nhân đạo của kẻ thù. Chúng đã hủy hoại cuộc sống của con người bằng hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Rồi còn hủy hoại cả môi trường sống "nặng thuế khóa sạch không đầm núi", "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ". Chúng còn sử dụng người dân như là những công cụ để phục dịch, vơ vét sản vật "Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc", "Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng". Nhân dân vô tội đã hoàn toàn bị triệt tiêu đường sống, khổ không tả xiết, tội ác của quân Minh khiến trời không dung đất không tha. Câu "Ai bảo thần nhân chịu được?" như một câu hỏi, một lời tố cáo đầy căm phẫn với kẻ thù.
Nghệ thuật viết cáo trạng của Nguyễn Trãi ở đây bao gồm nghệ thuật tương phản đối lập giữa nhân dân với kẻ thù, dân ta thì nheo nhóc, góa bụa, phải lao động phục dịch vất vả, lên chốn rừng sâu nước độc, còn quân thù thì "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán". Tác giả cũng sử dụng những hình tượng gợi tả và gợi cảm "trúc Nam Sơn" và "nước Đông Hải" dùng cái vô cùng của tự nhiên để miêu tả những tội ác nhiều vô số kể của quân Minh. Giọng văn thống thiết đau đớn xót xa khi nói về thảm cảnh của con dân, có lúc lại đanh thép khi kết tội kẻ thù.
Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn tác giả lại nói về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược, kể lại quá trình chinh phạt đầy gian khổ của nghĩa quân từ buổi đầu đến khi chiến thắng. Giai đoạn đầu đầy cuộc khởi nghĩa bắt đầu với đầy khó khăn và thách thức. Phía quân thù đang mạnh, "hung đồ ngang dọc", thả sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế, còn phía ta thì:
"Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc"
"Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi"
"Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội."
Chúng ta gần như thiếu tất cả, thiếu người tài, thiếu quân lính, thiếu lương thực, thứ có nhiều nhất ấy là tấm lòng yêu nước, lòng căm thù quân giặc sâu sắc "Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả". Từ đó, thấy được sự chênh lệch giữa ta và địch là rất lớn, khó khăn chồng chất lên nghĩa quân Lam Sơn, thế nhưng bằng tinh thần kiên cường, bất khuất nghĩa quân vẫn có thể vượt qua tất cả và đi tới thắng lợi. Đó là tấm lòng đoàn kết "nhân dân bốn bể một nhà", "tướng sĩ một lòng phụ tử", là bộ óc thông minh sáng tạo, lòng can trường dũng mãnh "Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".
Trong đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi còn đề cập đến vai trò của người lãnh tụ, người đóng vai trò nòng cốt lèo lái cuộc khởi nghĩa đó là Lê Lợi. Người anh hùng đã hội tụ đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại đó là: Lòng căm thù giặc sâu sắc "ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống", có lý tưởng cao đẹp, có lòng quyết tâm, coi trọng nhân tài, coi trọng vai trò của nhân dân biết tập hợp sức mạnh dân tộc. Ông còn có khả năng thu phục lòng người, tạo nên khối đoàn kết vững mạnh và một yếu tố không thể thiếu đó là tài mưu lược hơn người.
Từ giai đoạn đầu đầy khó khăn của cuộc khởi nghĩa nhưng với vai trò của người lãnh tụ kiệt xuất Lê Lợi, cuộc khởi nghĩa đã có nhiều chuyển biến tốt đẹp, bước vào giai đoạn phản công và giành thắng lợi. Ban đầu đó là nghĩa quân tiến đánh các vị trí khác nhau ở phía Bắc để giành lại các cứ điểm quan trọng bao gồm các trận: Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động. Với sĩ khí không ngừng dâng cao "hăng lại càng hăng", ta liên tục thắng trận, thừa thắng xông lên, quân giặc liên tiếp bại trận phải bỏ chạy, nơi nơi thấy xác "thây chất đầy nội", kẻ "bêu đầu", kẻ"bỏ mạng",tướng giặc vô dụng, quân sĩ thì tan tác. Quân đội ta tuy thấy kẻ địch còn thoi thóp nhưng không hề đuổi cùng diệt tận mà vẫn tha cho con đường sống. Ấy thế mà chúng lại mưu tính chuyện phản công, cầu chi viện, thật ngoan cố hết sức. Chính điều đó đã dẫn đến những trận chặn đánh tiếp theo của nghĩa quân ta ở Chi Lăng, Mã An. Quân giặc có ý định đánh nhanh thắng nhanh, nhưng tinh thần giặc đã sa sút, lại gặp sĩ khí quân ta bừng bừng nên sớm phải thất bại, xin hàng. Nghệ thuật miêu tả giàu chất anh hùng ca, sử dụng những hình tượng đo bằng sự hùng vĩ, rộng lớn của thiên nhiên. Dùng nhiều động từ liên tiếp, tính từ ở mức độ tối đa để tạo thế tương phản của ta và địch, câu văn dài ngắn linh hoạt khiến cho nhịp điệu bài cáo nhanh chậm rõ ràng, tựa như tiếng ngựa phi, tiếng bước chân chạy hào hùng. Đọc mà tưởng như nhìn thấu cả cuộc chiến phong vân đổi dời.
Phần bốn là phần tuyên bố chiến quả và khẳng định sức mạnh chính nghĩa. Khác với giọng văn dồn dập, tiết tấu nhanh của đoạn 3, ở đây giọng văn lại mang sắc thái trầm lắng, như qua cơn mưa trời lại sáng, yên ả thanh bình. "Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới", tuyên bố chiến thắng, khẳng định nền độc lập dân tộc đã được giành lại, vận nước đang lên. Tựa như quẻ Càn, quẻ Khôn trong Kinh Dịch, tựa như quy luật của nhật nguyệt, đó là niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng. Từ đây, nước ta chính thức bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên độc lập vững bền sau hơn 20 năm sống trong cảnh nhọc nhằn. Từ đó, Nguyễn Trãi cũng rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của Càn, Khôn, quy luật của nhật nguyệt giúp ta liên tưởng đến vận mệnh của đất nước, cũng có lúc lên lúc xuống, có hưng thịnh thì cũng có lúc suy tàn. Để vận nước được lâu bền, ta phải lấy nhân dân làm gốc, lấy tư tưởng nhân nghĩa làm đầu, phải tuân theo "thiên mệnh", ghi nhớ công lao của cha ông đã hy sinh cho Tổ quốc, đừng vì sống trong cảnh thanh bình mà quên mất những ngày gian khó.
Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản thiên anh hùng ca bất tận, là áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập xuất sắc lưu danh mãi muôn đời. Ở đó, thể hiện được những tư tưởng nhân nghĩa và tiến bộ của Nguyễn Trãi trong quan niệm về một quốc gia. Tác phẩm vừa là tuyên ngôn khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, đồng thời cũng là tuyên ngôn về quyền sống của con người, mà trước đây chưa từng một văn bản nào đề cập đến. Nhân dân ta đã được đẩy lên tầm cao mới đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành đất nước, đó là một quan điểm rất tiến bộ và xuất sắc trong nhận thức của đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi.