Văn bản ngữ văn 7

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Trần Thị Thùy Linh

giải thích câu tục ngữ bầu ơi thương lấy bí cùng

Khánh Linh Nguyễn
28 tháng 4 2018 lúc 21:50

Người Việt Nam ta có một truyền thống rất quý báu, đó là tinh thần tương thân tương ái “lá lành đùm lá rách”, tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau “thương người như thể thương thân”. Truyền thống ấy đã trở thành đạo lí của dân tộc, được thể hiện trong tục ngữ, ca dao. Câu ca dao giàu hình ảnh dưới đây bắt đầu từ nguồn mạch ấy:

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn,

Nói đến lòng yêu thương lẫn nhau, đoàn kết với nhau, câu ca dao trên đã đưa ra hai hình ảnh so sánh giàu sức biểu cảm: “bầu” và “bí”. Bầu và bí tuy là giọng khác nhau nhưng được trồng chung trên một mảnh đất, bắc chung một giàn tre. Chúng thường có chung môi trường, điều kiện sống. Chính vì vậy chúng càng gần gũi, thân thiết với nhau. Bầu thân mềm, bí cũng thân mềm. Bầu phải tựa vào giàn mới phát triển được. Bí cũng như thế. Chung một giàn còn có nghĩa là bầu và bí tựa vào nhau, tựa vào giàn. Giàn đổ thì bầu gặp tai vạ, bí cũng gặp tai vạ. Bầu và bí cùng chung một số phận. Vì thế bầu chớ chê bí xấu, bí cũng không nên chê bầu hoa trắng không được duyên rồi ghét bỏ, xa cách nhau. Vì sao bầu bí khác giống nhau mà vẫn phải thương yêu nhau? Nhân dân đưa ra lý do “chung một giàn”. Chung một giàn là chung nhau địa điểm, chung nhau không gian. Bầu và bí cũng chịu mưa, chịu nắng, cùng sống chung bằng những tấc đất bạc màu hay trù phú, cùng được tưới những dòng nước mát hay cùng chịu những ngày hạn hán. Như vậy cảnh ngộ của chúng không khác gì nhau. Lẽ nào một mình bầu tươi xanh khi bí thì khô héo? Bầu thương bí cũng chính là thương mình, bí có sống thì bầu mới sống. Nếu bí cỗi cằn thì bầu cũng chẳng tươi xanh.

Câu ca dao nói về bầu và bí nhưng dân gian không chỉ nói chuyện cỏ cây. Hình ảnh bầu bí là hình ảnh ẩn dụ để khuyên nhủ người đời. Con người cũng như cây bầu, cây bí, tuy khác giống (không phai là anh em “cùng, chung bác mẹ ruột nhà càng thân”) nhưng lại sống chung một làng, một xã.

Hình ảnh cái giàn của bầu và bí chung nhau gợi cho người ta liên tưởng đến một đất nước, một tỉnh, một huyện, một vùng quê, một xã, một làng. Cùng có thể đó là một trường, một lớp học hay một xưởng máy, một cửa hàng. Bầu hãy thương lấy bí hay là những người gần gũi trong một đơn vị tổ, nhóm hãy đoàn kết gắn bó và yêu thương nhau.

Không ai có thể sống đơn lẻ một mình, không có mối liên hệ nào với những người khác. Ai cũng có quê hương nghĩa là có những người đồng hương chung làng, chung xóm. Ai cũng phải làm việc nên cũng có những người đồng nghiệp. Khi còn bé đi học, bạn bè cùng lứa tuổi cùng chung trường lớp, thầy cô. Chính những nét chung nhất ấy của họ đã giúp họ gắn bó với nhau hơn. Nhờ đó họ càng hiểu nhau, cảm thông cho nhau và giúp đỡ nhau, nhường nhịn nhau. Nhất định cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu mọi người đều quan tâm, yêu quý nhau. Vì vậy lòng yêu thương, tinh thần đoàn kết, chia sẻ, nhường nhịn nhau là đức tính, phẩm chất quí báu cần có ở mỗi người.

Lời khuyên nhủ, kêu gọi yêu thương đoàn kết không chỉ được nhắc một lần qua câu ca dao trên. Chúng ta còn bắt gặp trong những câu ca dao khác:

– Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng

– Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau

Thực tế đã chứng minh sự đoàn kết gắn bó của nhân dân ta mồi khi có giặc ngoại xâm. Trong những trận chiến đấu ấy, tình thương yêu, đoàn kết đã làm cho dân tộc ta có sức mạnh chiến thắng. Từ miền ngược tới miền xuôi, từ Bắc chí Nam, từ cụ già đến trẻ em ai ai cũng đồng lòng giết giặc cứu nước. Bởi vì họ đều là dân của đất nước Việt Nam cùng chịu chung nỗi khổ mất nước, chịu chung ách nô lệ. Chính vì vậy mà nhân dân ta đã đoàn kết, yêu thương nhau, cùng nhau chiến thắng kẻ thù.

Hiện nay đất nước ta đã thống nhất nhưng không phải mọi miền đều giàu có như nhau. Cuộc sống của mọi người cung khác biệt. Có những người quanh năm làm lụng vất vả nhưng không sao đủ cái ăn, cái mặc. Lại có những người rất giàu sang, đầy đủ. Theo truyền thống yêu thương của dân tộc, cần phải giúp đỡ người nghèo xóa đói giảm nghèo. Những người giàu có giúp người nghèo vay vốn làm ăn, góp tiền ủng hộ quỹ từ thiện chính là thể hiện tinh thần “lá lành đùm lá rách”, truyền thống nhân ái “nhường cơm sẻ áo” của cha ông. Nếu không giúp đỡ, nương tựa vào nhau như vậy làm sao con người có thể đồng đều vươn lên trong cuộc sống?

Đọc lại câu ca dao kêu gọi lòng yêu thương đùm bọc, ta càng thấy ý nghĩa to lớn của tình thương và sự sáng suốt của người xưa. Tình thương làm cho người ta sống nhân hậu, thân ái với mọi người. Tình thương làm cho con người vượt qua được khó khăn, hoạn nạn. Yêu thương, quan tâm giúp đỡ những người xung quanh, những người hàng xóm, bạn bè là một phẩm chất cần có của mỗi người chúng ta. Người Việt Nam sẽ truyền cho thế hệ mai sau đạo lý tốt đẹp đó để làm cho đời này thêm đẹp, thêm ý nghĩa hơn.

MAI ĐOÀN THÙY TRÂM
29 tháng 4 2018 lúc 10:58

Bài làm

Các nhà nghiên cứu văn chương truyền khẩu đều cho rằng, tục ngữ là kho tàng trí tuệ, đúc kết kinh nghiệm sống của tổ tiên bao đời, còn ca dao chính là những khúc hát ru, câu hát trữ tình phong phú nhất của dân tộc. Con người có bao nhiêu hoàn cảnh sống là có bấy nhiêu hoặc hơn nữa là bài ca dao. Lao động mệt nhọc ư? Đã có những khúc hát hò dô, hát ví, hát đối... Công cha nghĩa mẹ? Không thiếu! Không thiếu trong biểu đạt tình cảm riêng tư và không thiếu trong cả tình thương của cộng đồng người khác màu da, chủng tộc trên cùng một vùng đất. Không lúc nào chúng ta không nghe điệp khúc:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Về nghĩa đen thì hai câu ca dao không có lấy một từ Hán Việt. Bầu, thương, bí, giốn, giàn là những từ gợi hình giữ nhiệm vụ chính cũng không xa lạ gì với người đọc. Bầu bí là hai loại thực vật khác nhau về cây, lá, trái nhưng cùng họ dây leo nên những người miền quê thường gọi là dây bầu, bây bí. Khác với dưa hấu, bí ngô... bò sát đất, bầu và bí cùng phát triển trên cái giàn làm bằng thân, cành cây tre, gồm những chiếc cột và những nức thang gác ngang tạo thành những ô vuông nhỏ. Dù đơn so hay vững chắc, thấp hay cao thì mặt giàn cũng phải cách mặt đất để khoảng trống cho trái bầu, trái bí treo lủng lẳng, đong đưa. Như vậy, dù gốc chúng có khác nhau nhưng xét cho cùng cả bầu lẫn bí kêu gọi thương yêu nhau cũng là lẽ thường tình.

Đứng lẻ loi, một mình thì bầu, bí là những phần tử mang tính hiển ngôn. Nhưng khi có động từ thương tham dự vào thì chúng còn mang đặc tính hàm ngôn. Bầu, bí trong câu ca dao tượng trưng cho các dân tộc cùng sống chung một giàn, chung một quê hương, tô quốc.

Tìm về cội nguồn dân tộc trong kho tàng truyện thần thoại, truyện cổ tích. Chúng ta càng hiểu rõ hơn nghĩa của hai câu ca dao trên. Cuộc tình của cha mẹ thuở ua tuy là khác giống nhưng đã nảy sinh trên vùng đất Lạc Việt. Lạc Long Quân nòi Rồng sống dưới biển, Âu Cơ thuộc dòng dõi Thần Nông sống ở trên núi, vì đem lòng thương yêu nhau nên đã cùng nhau chung sống. Hai người sinh ra trăm con, sau này chia năm mươi con theo cha xuống biển, năm mươi người con theo mẹ lên ngàn, chia nhau cai quản mỗi người một phương, cùng hứa hẹn lúc cần sự giúp đỡ thì tìm đến nhau.

Truyện cổ của người Bana cũng mang ý nghĩa tương tự. Người cha đã giận đứa con út vô tình nên đuổi anh ta ra khỏi nhà. Người anh vội vàng vào rừng báo cho vợ và em biết. Nàng vào rừng sau, núi cao tìm gặp chồng. Họ cùng phá nương rẫy xây dựng buôn làng để thành người Bana. Còn người anh vẫn ở cùng cha ở miền đồng bằng rồi trở thành người Kinh.

Qua hai truyện cổ tích trêm xem ra các dân tộc trên dải đất hình chữ S này không chỉ cùng giản mà cùng gốc, nhưng vì hoàn cảnh nên phải sống xa nhau và theo hình thể bên ngoài, phong cách sống cũng biến đổi dần theo công việc, theo phong thổ.

Giờ đây, trên vùng đất được xem như cái bao lơn trông ra Thái Bình Dương này tập hợp trên sáu mươi sắc dân: Tày, Dao, Nùng, Mường, Thái, K''Hor... làm phong phú thêm sắc thái của người dân Việt.

Phải công nhận rằng, tổ tiên ông cha ta đã sớm nhận ra tâm lí thường ngày của con người trong cuộc sống, đời sống riêng tư của mọi người, của gia đình, của các dòng họ nhiều lúc làm con người quên mất việc quan tâm đến cuộc sống của người khác. Con người chỉ biết vun vén, xây dựng hạnh phúc riêng nên quên mất hạnh phúc chung, quên mất tình thương đối với những người cùng chung đất nước đang lâm vào cảnh ngặt ngèo đói cơm thiếu áo bởi bạn binh đao, bởi thiên nhiên khắc nghiệt...

Quá khứ giúp chúng ta nhận ra rằng dân tộc chúng ta luôn bị nạn ngoại xâm đe dọa. Mỗi lần quân giặc tràn qua, người dân vùng biên giới lại chịu cảnh nhà tan cửa nát. Vì họ ở tuyến đầu nên phải cầm gươm súng chống lại giặc, chẳng có thì giờ để cầm cuốc cầm cày đi vào xí nghiệp... Nơi nào có bóng dánh của chiến tranh thì nơi ấy chịu cảnh tiêu điều, tang thương. Từ thuở Hùng Vương dựng nước đến nay đã bao lần người dân ở vùng biên giới phương Bắc lại lâm vào cảnh đói cơm, thiếu áo. Từ cậu bé làng Gióng cưỡi ngựa sắt xông ra trận chống lại giặc Ân, Hai Bà Trưng cất quân chống lại nhà Đông Hán, rồi Lê Hoàn, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hồ Chí Minh... và ngay cả vào năm 1979 khi súng vừa im ở biên giới Tây Nam thì đạn lại nổ ở chân trời phía Bắc. Những làng mạc cận kề biên giới Camphuchia từ Quảng Tín đến Hà Tiên đã làm mồi cho ngọn lửa tàn bạo của bè lũ Pôn Pốt. Thành phố, làng mạc chạy dọc theo biên giới sau tỉnh miền Bắc bị đốt cháy, nghiền nát bở đại bác và xe tăng chẳng khác gì cảnh đổ nát tang thương của những năm tháng chống Minh, Nguyên, Thanh xâm lược.

Những lúc vận mệnh của đât nước lâm vào cảnh nguy khốn ấy thì lại xuất hiện bọn gian bán nước cầu vinh như Nguyễn Trãi dã tường trình trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo, hay cụ Phan Bội Châu đã nhận định:

Sống trong nước mỗi người mỗi khác

Vốn cùng nhau xung khắc bất hòa

Nhưng là ta lại hai ta

Cầu thân dị chúng mà xa đồng bào

Nhưng nếu số ít người phản bội ấy cũng không thể triệu triệu triệu đồng bào đồng thanh kêu gọi:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Tình thương đã tỏ ta thì mọi người đoàn kết lại, ngọn lửa căm hờn sôi sục tạo nên sức mạnh thiêu sạch quân thù!

Chúng ta cũng cần nhớ đất nước thân yêu ở vào vùng nhiệt đới, kéo dài gần hai ngàn cây số theo đường chim bay, địa thế thuận lợi giao thương nhưng luôn luôn bị đe dọa bởi các thiên tai. Truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh luôn là bài học cảnh giác. Cả ba miền Bắc - Trung - Nam đều phải hứng chịu bão lụt, nhất là người miền Trung hứng chịu nhiều nhất, sau đó là Miền Bắc và Miền Nam. Miền Bắc có thuận lợi là có lưu vực sông Hồng đất đai màu mỡ, còn miền Nam có vùng châu thổ sông Cửu Long, có những cánh đồng sải cánh cò bay, cá tôm phong phú, vùng duyên hải vừa có đồng ruộng vừa phong phú hải sản thì cũng có những vùng:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Đất nghèo chất dinh dưỡng, bão lụt, hạn hán thường xuyên ập đến khiến đất ở đây trở nên mặn, nhiều phèn và phải chịu cuộc sống cay đắng. Người dân ở vùng đất này cày lên sỏi đá phải dốc hết sức lực nhưng cái đói vẫn đeo đẳng không chịu buông tha. Tổ tiên của chúng ta đã không quên đồng bào ở những vùng đất ấy. Mỗi lần thiên tai ập đến là mỗi lần có lời kêu gọi thiết tha vang lên:

Nhiều điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng

Mưa đá, gió lốc ở Cao Bắc Lạng, bão lụt từ Hà Tĩnh - Quảng Nam, nước ngập ở vùng Đồng Tháp, Hậu Giang và mới đây vùng Phú Yên mất trắng cây hoa màu vì thiên tai. Và lời kêu gọi vang lên nhắc nhở mọi người đừng quyên tinh thần tương trợ.

Bất cứ thời đại nào, người Việt dù sống ở nơi đâu, mỗi khi biết đồng bào gặp những hoàn cảnh khó khăn thì họ lại hát lên câu:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

có tự bao giờ.


Các câu hỏi tương tự
Rin_ Chan
Xem chi tiết
Đỗ Lương Thế Anh
Xem chi tiết
Vương Quốc Anh
Xem chi tiết
Lê Hoàng Như Quỳnh
Xem chi tiết
Vinh Huỳnh
Xem chi tiết
Bare Meaning
Xem chi tiết
Nguyễn Hải Anh
Xem chi tiết
Nguyễn Hải Anh
Xem chi tiết
Selina Moon
Xem chi tiết