Vai trò của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ 2
Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra ngày 1-9-1939 khi phát xít Đức tấn công Ba Lan. Sau khi chiếm hầu hết châu Âu, rạng sáng ngày 22-6-l941 phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Theo kế hoạch “Bacbarôt”, phát xít Đức hy vọng nhanh chóng đánh chiếm Liên Xô và “bắt thế giới đầu hàng”.
Ý thức được điều đó, Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân, Hồng quân Liên Xô sẵn sàng đương đầu với chủ nghĩa phát xít, không những vì nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc mà còn vì sự sống còn của toàn nhân loại. Sự thật lịch sử đã chứng minh: quân đội và nhân dân Liên Xô là người đóng vai trò quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
1) Hồng quân Liên Xô đã chịu đựng gánh nặng lớn nhất của chiến tranh và tiêu diệt đại bộ phận lực lượng phát xít trên mặt trận Xô - Đức
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, chiến sự diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu, mặt trận Bắc Phi, mặt trận Xô - Đức, mặt trận Thái Bình Dương... Nhìn chung, mặt trận nào cũng gay go, phức tạp và kèm theo những tổn thất vô cùng lớn lao. Tuy nhiên, nếu xét về trọng tâm chiến lược của quân đội phát xít, về cường độ chiến tranh và tác dụng quyết định của các chiến dịch đối với kết quả cuối cùng của toàn bộ cuộc chiến tranh thì mặt trận Xô - Đức được xếp ở vị trí đầu tiên.
Mặt trận Xô - Đức chính thức mở màn ngày 22-6-1941. Vào thời điểm đó tổng số quân của lực lượng vũ trang Đức là 8,5 triệu người và được biên chế thành 214 sư đoàn, trong đó 190 sư đoàn được phái sang mặt trận Xô – Đức (5,5 triệu quân). Tiềm lực quân sự của phát xít Đức cũng tăng lên nhanh chóng. Đến giữa năm 1941 Đức tập trung tại mặt trận phía Đông 10.000 máy bay và gần 6.000 xe tăng.
Chính tại mặt trận Xô - Đức, quân đội phát xít đã phải gánh chịu những tổn thất to lớn về người và vật chất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương và bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai lên tới gần 14 triệu người, trong đó riêng ở mặt trận Xô - Đức là 10 triệu người.
Một khối lượng khổng lồ vũ khí, quân trang, quân dụng bị phá hủy hoặc bị tịch thu: 48.000 xe tăng, 77.000 máy bay và hàng triệu vũ khí các loại. Thắng lợi của Liên Xô trên mặt trận Xô - Đức mang tính quyết định đến toàn bộ kết quả của chiến tranh, đánh gục hoàn toàn chủ nghĩa phát xít Đức, tiến tới kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
2) Chiến thắng của quân đội Liên Xô làm thay đổi cục diện chiến tranh góp phần giành thắng lợi cho các lực lượng chống phát xít
Trong những trận giáp chiến liên tục kéo dài 5 tháng rưỡi vào mùa hè và thu năm 1941, Hồng quân Liên Xô đã làm thất bại kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức và buộc chúng chuyển sang thế phòng thủ với những tổn thất lớn lao: gần 403.000 quân bị giết, bị thương và bị bắt làm tù binh.
Trận đánh ở cửa ngõ Mátxcơva mùa đông 1941 - 1942 là một trong những sự kiện lịch sử quan trọng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 30-9-1941 phát xít Đức huy động một lực lượng đông đảo gồm 1,8 triệu quân, 1.700 xe tăng, 14.000 đại bác và súng cối, gần 1.000 máy bay chiến đấu đánh vào Mátxcơva.
Mọi tầng lớp dân chúng Mátxcơva cùng nhất loạt đứng lên đánh trả quân xâm lược. Tổn thất của phát xít Đức lên tới gần 400.000 người. Chiến thắng ở Mátxcơva làm thay đổi cán cân lực lượng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai theo hướng có lợi cho các lực lượng Đồng minh chống phát xít và làm cho uy tín của Liên Xô được tăng cao.
Từ giữa năm 1942 đến đầu 1943 những trận đánh ác liệt kéo dài 6 tháng ở Xtalingrát đã làm cho phát xít Đức trở nên khốn quẫn hơn. Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 1/4 tổng số quân địch trên toàn bộ mặt trận Xô - Đức lúc đó: 22 sư đoàn tinh nhuệ bị xóa sổ, 1.700.000 tên địch bị tiêu diệt, 300.000 binh lính và sĩ quan bị bắt làm tù binh. 24.000 khẩu đại bác, 3.500 xe tăng và 4.300 máy bay Đức bị tiêu diệt. Chiến dịch Xtalingrát đánh dấu bước ngoặt quan trọng, làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô cũng như cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Mùa hè năm 1943 diễn ra trận đánh lớn ở vòng cung Cuốcxcơ. Tại đây, hai bên tập trung tới 4 triệu quân, 69.000 đại bác và súng cối, 13.000 xe tăng, 11.000 máy bay. Sau 50 ngày đêm chiến đấu, quân đội Liên Xô đã đập tan cuộc tấn công chiến lược của địch, tiêu diệt nửa triệu quân, 3.000 máy bay, 1.500 xe tăng cùng nhiều vũ khí khác.
Sau chiến dịch Cuốcxcơ, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công, giải phóng hoàn toàn đất nước Xô viết, tiến tới biên giới phía Tây. Mãi đến ngày 6-6-1944 khi quân đội phát xít Đức bị đánh đuổi hoàn toàn ra khỏi lãnh thổ Liên Xô và Hồng quân Liên Xô bắt đầu chiến dịch giải phóng lãnh thổ các nước Đông Âu, truy quét phát xít Đức đến tận sào huyệt của chúng thì liên quân Anh - Mỹ mới vội vàng mở “Mặt trận thứ hai” (chiến dịch Ôvéclô) do tướng Đ.Aixenhao chỉ huy, chia sẻ gánh nặng chiến tranh với Liên Xô. Đây là cuộc đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, gồm khoảng 1,5 triệu người để chiến đấu với 560.000 quân phát xít Đức. Trong khi đó, tại mặt trận phía Đông, Liên Xô đã phải huy động tới 4,5 triệu người để chống lại 5,5 triệu quân phát xít Đức.
Cuộc đổ bộ vào Noócmăngđi và các cuộc tiến công sau đó của quân đội Anh - Mỹ vào Pháp và Bỉ cũng là chiến dịch có ý nghĩa lớn về chính trị và chiến lược. Nhưng không thể đánh giá quá cao vai trò của chiến dịch Ôvéclô và ảnh hưởng của nó đối với diễn biến sau này, cũng như đối với việc kết thúc của thế chiến thứ hai được. Điều kiện cần thiết chủ yếu cho thắng lợi của chiến dịch này là phát xít Đức đã mất khả năng chi viện cho chiến trường Tây Âu.
Chúng đã bị suy yếu vì những tổn thất nặng nề trong các trận đánh ở mặt trận phía Đông với quân đội Liên Xô. Chính Sớc-sin, một người chống cộng sản điên cuồng và hết sức thù ghét Liên Xô, cũng đã phải tuyên bố ở hạ nghị viện Anh ngày 28-9-1944 rằng: “Chính quân đội Nga đã rút ruột bộ máy chiến tranh của Đức và hiện nay đang kìm lại trên chiến trường của họ một bộ phận lực lượng địch rất lớn”.
Một số khác không phủ nhận thắng lợi của Liên Xô nhưng lại coi thắng lợi đó là kết quả của những sai lầm về kế hoạch tác chiến của Hítle, hoặc nhờ có viện trợ vũ khí, lương thực... của Anh, Mỹ cho Liên Xô. Thực ra số hàng viện trợ của Anh - Mỹ lúc đó là rất cần thiết và quí giá trong khi Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Song số vũ khí viện trợ đó chỉ chiếm 4% lượng vũ khí do Liên Xô sản xuất, bao gồm: 9.600 khẩu đại bác (2%), 18.700 máy bay (12%), 10.800 xe tăng (l0,4%), 400.000 ô tô, một số đầu máy xe lửa, nhiên liệu, khí tài thông tin, thuốc men, lương thực...
Số viện trợ này rất ít ỏi so với sự đóng góp của Liên Xô nhằm giảm bớt sự hy sinh, mất mát của các nước Đồng minh trong chiến tranh và điều quan trọng là Hồng quân đã chặn đứng quân đội phát xít Đức và bắt đầu tổng phản công từ cuối năm 1941, trước khi Liên Xô nhận được những chuyến hàng viện trợ từ Mỹ, Canada và Anh vào giai đoạn 1943-l945, khi nền công nghiệp của Liên Xô đã sản xuất được nhiều hơn của Đức.
Việc đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức là bằng chứng không thể chối cãi được về sự bất lực của những kẻ xuyên tạc lịch sử. Không thể phủ nhận một sự thật là Quân đội Liên Xô đã giữ vai trò chủ lực, là lực lượng quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu.
Câu 2: Suy nghĩ của bạn về hành động Mỹ ném 2 quả bom Nguyên tử vào 2 thành phố của Nhật Bản và trong chiến tranh TG.
Sự thật là việc thả bom nguyên tử xuống hai thành phố Nhật Bản Hiroshima và Nagasaki của Tổng thống Truman là một trong những quyết định gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Nhiều năm đã trôi qua, cuộc tranh luận không có hồi kết mà chỉ trở nên gay gắt hơn. Ngày càng có nhiều người – cả ở Mỹ và ở nước ngoài – đã lên án cả Tổng thống Truman và nước Mỹ về quyết định này.
Nhưng những sự chỉ trích này lại dựa trên những kiến thức lịch sử hạn chế về cả tình huống mà tổng thống Truman phải đối mặt lẫn cơ sở để đi đến quyết định của ông. Sự phân tích đầy thiếu sót như thế đã được hỗ trợ bởi những thông tin lịch sử không đúng đắn và lệch lạc, chẳng hạn như thông tin được đưa ra bởi các thành viên của trường phái “ngoại giao nguyên tử”. Các nhà sử học này đã cáo buộc một cách đáng hổ thẹn rằng việc Tổng thống Truman tiến hành thả hai quả bom nguyên tử lên một nước Nhật Bản, mà ông này biết là đang trên bờ vực đầu hàng, là để đe dọa Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Lạnh đang dần dần thành hình. Sự giải thích chỉ hợp lý ở bề ngoài này phải bị bác bỏ hoàn toàn.
Tổng thống Truman tìm cách ném bom Hiroshima và Nagasaki, hai mục tiêu quân sự và công nghiệp chủ chốt của quân đội Nhật, nhằm tránh một cuộc xâm chiếm Nhật Bản mà ông Truman biết chắc sẽ trở thành “một Okinawa từ đầu bên này đến đầu bên kia của nước Nhật” (Chú thích: Okinawa là nơi diễn ra một trong các trận chiến đẫm máu nhất tại Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai). Giả định của ông là hoàn toàn chính đáng.
Vào tháng 7/1945, Nhật Bản đã phải chịu các cuộc tấn công tàn phá bởi máy bay B-29 của Mỹ trong nhiều tháng, thủ đô và các thành phố lớn khác đã bị thiệt hại nặng nề, và các đảo chính đã bị hải quân phong tỏa làm cho thực phẩm và nhiên liệu ngày càng khan hiếm. Tổn thất quân sự và dân sự của Nhật Bản lên đến khoảng ba triệu người và trước mắt cuộc chiến dường như không có hồi kết. Bất chấp những điều này, các nhà lãnh đạo Nhật Bản và đặc biệt là quân đội của họ quyết liệt bám lấy quan điểm Ketsu-Go ( “trận chiến quyết định”). Trên thực tế, chính phủ Nhật Bản đã huy động một phần lớn dân số làm thành một lực lượng dân quân quốc gia, lực lượng này sẽ được điều động để bảo vệ các quốc đảo.
Việc khẳng định quyết tâm tiếp tục chiến đấu của Nhật Bản là một sự thật đã được chứng minh, vì ngay cả sau khi hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị thả bom nguyên tử, các tướng lĩnh quân đội Nhật Bản vẫn muốn theo đuổi lựa chọn tuyệt vọng này. Nhưng hai quả bom nguyên tử đã buộc Hoàng đế Hirohito phải hiểu rõ, và hiểu theo cách mà các lãnh đạo quân sự của ông từ chối, rằng việc bảo vệ Nhật khỏi quân đồng minh là vô vọng. Hoàng đế Nhật Bản đã phải sử dụng quyền can thiệp chưa từng có để phá vỡ sự bế tắc trong chính phủ Nhật Bản và cuối cùng ra lệnh đầu hàng. Chính việc thả bom nguyên tử đã khiến Nhật hoàng và phe chủ hoà trong chính phủ Nhật Bản đàm phán để chấm dứt chiến tranh.
Tại tình huống đó, tất cả các kịch bản thay thế khác, khả thi để đảm bảo được chiến thắng của Mỹ đều đi đến một kết luận là số lượng thương vong của Mỹ và quân đồng minh sẽ lớn hơn nhiều lần và thương vong dân sự và quân sự của Nhật Bản sẽ còn cao hơn nhiều. Theo ước tính của quân đội Mỹ vào thời điểm đó, số người bị thiệt mạng có thể lên trên một triệu. Số người chết tại Nhật theo các thống kê chính thức, vì 2 quả bom nguyên tử là khoảng 200.000 người.
Mặc dù khó có thể chấp nhận, nhưng tổn thất của Nhật Bản sẽ lớn hơn rất nhiều nếu không có những quả bom này. Và thương vong tổng thể cũng sẽ bao gồm hàng ngàn tù binh chiến tranh thuộc quân đồng minh, tức là có cả người Mỹ – mà quân Nhật đã lên kế hoạch hành quyết trong trường hợp nước họ bị xâm lược.
Quyết định sử dụng đến bom nguyên tử của Tổng thống Truman cần được cân nhắc trong bối cảnh đó để thấy đó là lựa chọn ít khủng khiếp nhất trong số các phương án có sẵn dành cho ông.
Ngay cả khi suy ngẫm lại về thời điểm đó, xa rời những áp lực mà tổng thống Truman phải đối mặt vào năm 1945 thì những người chỉ trích ông cũng không thể đưa ra được một đề nghị nghiêm túc và thuyết phục về một phương án thay thế khả thi và ít tổn thất hơn.
Sự phán xét của lịch sử là rõ ràng và không mơ hồ: những quả bom nguyên tử đã rút ngắn cuộc chiến, ngăn chặn sự cần thiết phải tiến hành một cuộc chiến xâm lược, cứu sống vô số sinh mạng ở cả hai bên của cuộc xung đột đẫm máu – nhiều hơn nhiều lần số người thiệt mạng do hai quả bom gây ra, và kết thúc sự đối xử tàn bạo của nước Nhật đối với các dân tộc bị xâm lược ở châu Á.
Căn cứ vào các lựa chọn khả thi lúc đó, một con người có đạo đức sẽ làm gì nếu ở vị trí của tổng thống Truman?