Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Thái Bình , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 100
Số lượng câu trả lời 105
Điểm GP 0
Điểm SP 31

Người theo dõi (7)

mr 1997
9323

Đang theo dõi (2)

doquynhanh

doquynhanh

Suốt dải đường Trường Sơn bom đạn mịt mù, anh em chúng tôi - những người lính lái xe khi đó là những thanh niên trẻ tràn đầy nhiệt huyết và sức trẻ. Hồi đó, với chúng tôi những chiếc xe không kính chính là bạn đường, người đồng hành, chúng tôi không chê ngược lại còn rất trân trọng và lạc quan với những chiếc xe không kính.

Đâu phải những chiếc xe không kính sinh ra đã thế, mà bởi vì bom đạn chiến trường quá ác liệt, từng trận mưa bom đạn dội xuống rung chuyển cả đất trời thì kính của ô tô nào chịu nổi. Với những người lính lái xe như tôi thì kính có cũng được, không có cũng chẳng sao. Chúng tôi càng ung dung tự tại, càng hòa mình với thiên nhiên cây cỏ, được ngắm bầu trời trong xanh cùng những con đường, hoa lá, cỏ cây. Dường như gió lộng, sao trời, cánh chim đều ùa vào buồng lái. Những đêm có sao, tôi lái xe cảm tưởng như mình đang đi giữa bầu trời tự do, cảm giác ấy nó lạ lắm, thật khó mà diễn tả nổi. Chúng tôi, những gã trai tráng cứ hiên ngang, nhìn về phía trước.

Tất nhiên không kính thì tránh sao được bụi, bụi trên đường rừng thì mù mịt rồi, trắng xóa cả tóc. Lại nhớ mấy cậu trai khoa văn, cứ nhìn nhau ôm bụng cười: "Trông tụi mình có khác gì người già không cơ chứ!". Thế nhưng chẳng cần bận tâm, chẳng cần rửa, những lúc như thế chúng tôi châm điếu thuốc hút phì phèo rồi nhìn mặt nhau lấm bụi mà cười đùa như thế. Mỗi khi lái xe gặp mưa to, các bạn nghĩ chúng tôi phải nghỉ tránh mưa sao? Không hề, càng mưa thì càng chạy, chạy cho mát, và hơn cả là để nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ. Áo ướt rồi áo lại khô, chỉ cần lái vài trăm cây số gió thổi quần áo tự khô mà chẳng cần giặt, phơi phóng gì cho mệt.

Đâu phải chỉ có một, hai chiếc xe không kính, có cả một tiểu đội ấy chứ. Anh em lính lái xe chúng tôi thân nhau lắm, gặp nhau trên đường chúng tôi thản nhiên bắt tay qua cửa kính đã vỡ: "Chào đồng chí", "Đồng chí dạo này khỏe không?",... Đường còn dài, cũng có lúc phải nghỉ ngơi, phải ăn uống, cũng phải cho xe nguội máy nữa. Chúng tôi mỗi người một việc, đào bếp Hoàng Cầm, kiếm củi, nấu cơm, đến lúc ngồi ăn cùng mâm chung bát, chung đũa thế là như một gia đình. Nghỉ ngơi cũng chẳng có gì khó với người lính lái xe, an toàn nhất là mắc võng ngủ trên cây, giữa đường xe chạy. Càng tiếp tục đi tôi càng thấy trời xanh, càng thấy niềm tin và hi vọng đang ở ngay trước mắt. Trải qua bom đạn đường dài, dẫu cho chiếc xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước chằng chịt thì những chiếc xe và người lính lái xe vẫn cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Xe dù thiếu thốn đủ thứ nhưng vẫn chạy bon bon trên đường bởi vì trong xe có trái tim người lính, một trái tim hướng về miền Nam, hướng về hòa bình và độc lập dân tộc.

Đã bao nhiêu năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ như in những người đồng đội lái xe cùng mình, nhớ từng chiếc xe không kính. Năm tháng gian khó ấy đã qua đi, có cả niềm vui và nỗi buồn. Thật không dễ dàng để có được hòa bình, tự do như ngày hôm nay. Bởi vậy, tôi mong rằng thế hệ trẻ ý thức được điều đó và cố gắng gìn giữ, bảo vệ độc lập của dân tộc.

doquynhanh

Cuộc đời cứ trôi theo dòng chảy không ngừng của nó. Trong cuộc đời mỗi con người, chắc hẳn ai cũng có một người bạn tri âm tri kỉ của mình. Đối với tôi cũng vậy, chỉ khác là người bạn tri âm của tôi chính là ánh trăng đã song hành cùng tôi từ những ngày thơ ấu cho đến những đêm hành quân ra chiến trận. Trăng không kiều diễm tráng lệ mà mộc mạc như cây như cỏ. Tôi cứ ngỡ cả đời mình sẽ không bao giờ quên được người bạn tri âm này cho đến khi mình đã bị cuốn trôi bởi những xô bồ của cuộc sống thành phố hối hả.

Thời gian cứ thế trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, và con người không thể kháng cự lại sự thay" đổi đó. Khi đất nước hoà bình, tôi được chuyển về thành phố sống trong căn nhà buyn-đinh với đầy đủ đồ dùng hiện đại. Tôi cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi ánh điện, cửa gương. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, tôi đã quên đi người bạn tri kỉ của mình. Người tri kỉ ấy đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phải chăng vì cuộc sống quá tiện nghi và sung sướng nên tôi đã bỏ lại người bạn đã gắn bó bao năm tháng của mình? Ánh trăng giờ đây đối với tôi chẳng khác nào người dưng qua đường. Bỗng dưng đèn điện tắt, cả căn phòng tối om. Giờ đây tòi mới biết được cảm giác nóng nực và ngột ngạt, dường như không thế thơ nổi, tôi chạy ùa đến bật tung cửa sổ. Thật ngờ ngàng! Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là ánh trăng tròn vành vạnh.

Dường như trăng đã chờ đợi tôi rất lâu, trăng vẫn vẹn nguyên, chẳng có gì thay đổi dẫu cuộc sống có thê nào. Đối mặt với người bạn cũ, lòng tôi nghẹn ngào, những giọt nước mắt rưng rưng nơi khoé mắt như muốn trào ra. Những kí ức tuổi thơ và bao đêm ở rừng chợt dội về: trăng vằng vặc trên cánh đồng, bao la trên biển cả, len lỏi giữa những khe lá, kề vai sát cánh bên tôi những lúc buồn te, cô đơn. Ánh trăng im phăng phắc nhìn đáp lại tôi cứ như nhắc nhở về quá khứ xa xăm. Trăng vẫn tròn đầy, vẫn tỏa ánh sáng lung linh như chẳng hề trách giận. Lòng bi tha, tình cảm thủy chung ấy của trăng khiến tôi tự trách bản thân quá tồi tệ, vô tình.

Cuộc sống này sẽ chẳng có gì vui nếu không có tình bạn. Hãy trân trọng những người bạn tốt mà bạn có, bạn nhé!

doquynhanh

Bữa cơm, ông ta gắp cái trứng cá to vàng để vào chén tôi. Bình thường tôi rất thích ăn trứng cá. Tôi soi vào chén. Giá như đây là của ba gắp cho mình thì hay quá. Tôi thầm nghĩ vậy, nhưng tôi kịp nhận ra ông ta không phải là ba tôi. Tôi hất vội cái trứng ra, cơm văng tung toé khắp mâm. Ông ta vung tay đánh tôi và hét lên:

- Sao mày cứng đầu vậy hả?

Tôi chợt nhận ra hành động vừa rồi của mình thật vô lễ, tôi thật là hư đốn. Nhưng cũng vì tôi không muốn nhận ông ta là ba. Nếu tôi nhận cái trứng đó có khác gì tôi nhận ông ta là ba. Tôi không thể ngồi với ông ta nữa. Tôi gặp lại cái trứng cá vào chén, lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Xuống bến, tôi nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông. Tôi sang nhà ngoại. Tôi sẽ kể cho ngoại nghe về người đàn ông đáng sợ ấy đáng ghét như thế nào. Tôi cảm thấy ức. Ông ta có quyền gì mà đánh tôi cơ chứ. Nhưng tôi cố kìm nén để sang ngoại mới khóc. Tôi không muốn khóc trước mặt ông ta, như vậy là tôi trở nên yếu đuối trước ông ta, tôi không muốn điều đó. Má tôi có sang dỗ tôi về, nhưng tôi không về. Tôi không thích ở bên cạnh ông ta thêm một chút nào nữa, tôi ghét ông ta. Có lẽ thấy tôi về cũng sẽ làm cả nhà không vui nên má tôi cũng chẳng bắt. Đêm đó, ngoại hỏi tôi:

- Ba con, sao con không nhận.

Tôi giãy lên:

- Không phải

- Sao con biết là không phải? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì!

Không, tôi chẳng bao giờ quên ba cả, tôi luôn luôn nhớ đến ba. Những ngày ba đi, lúc nào tôi cũng lôi ảnh ba ra xem. Làm sao tôi quên cơ chứ.

- Ba không giống cái hình chụp với má.

Tôi bào chữa.

- Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi.

Không, không phải vì ba già mà tôi không nhận ra ba…

- Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo như vậy.

Tôi đành thú thật.

Ngoại cười lớn. Cái cười làm tôi ngơ ngác và tò mò. Ngoại kể lại tội ác của mấy thằng Tây ở đồn. Hoá ra vết thẹo ấy là ba tôi đi đánh Tây, Tây bắn bị thương. Bọn Tây độc ác. Tôi chợt thấy thương ba thì cũng đến lúc ba đi rồi. Sáng hôm sau tôi bảo ngoại đưa tôi về.

Mọi người đến đông quá. Ba cũng đang phải tiếp khách. Má thì lo sửa soạn hành lí cho ba. Mọi người ai cũng có việc của mình. Còn tôi, tôi cứ đứng lặng ở một góc. Tôi nhìn kĩ người đàn ông tôi đã từng lạnh lùng, trốn tránh. Ngoài vết thẹo dài ra, tất thảy những điểm trên gương mặt ông đều giống hình ba trong ảnh. Đó đúng là ba rồi. Vậy mà mình lại làm ba buồn. Suốt bao nhiêu năm tôi chờ đợi ba, thế mà đến lúc ba đi tôi mới nhận ra ba… Ba ơi… Trời, ba vác ba lô lên vai rồi… Ba đã bắt tay mọi người rồi… Ba nhìn tôi… Ba ơi… Từ trong sâu thẳm, tiếng ba cứ thúc giục tôi nhưng cứ đến miệng là nghẹn đắng. Ba sắp đi rồi. Không biết ba có về không. Không, tôi phải giữ ba lại. Ba nhìn tôi bằng đôi mắt buồn rầu, khe khẽ nói:

- Thôi! Ba đi nghe con!

Vậy là ba tha thứ cho tôi. Ba vẫn nhận tôi là con. Ba thật hiền, tôi không thể mất ba thêm lần nữa:

- Ba… a… a… ba!

Tôi đã kêu thét lên sau bao nhiêu sự đè nén. Tôi lao đến ôm chặt lấy ba. Tôi khóc:

- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!

Ba bế tôi lên. Vòng tay ba thật ấm. Tôi hôn khắp mặt ba, hôn cả vết thẹo nữa. Tôi hôn tất cả như muốn xin lỗi tất cả, nhất là vết thẹo.

- Ba đi rồi ba về với con.

- Không.

Tôi hét lên. Tôi sợ ba khó giữ được lời hứa của mình. Tôi quấn chặt lấy người ba bằng cả 2 tay 2 chân. Má tôi bảo:

- Thu! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về.

Bà ngoại dỗ tôi:

- Cháu ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược.

Tôi biết là tôi không thể giữ ba lại được nữa, liền mếu máo:

- Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba. Nói vậy chứ tôi chẳng cần một cây lược làm gì. Tôi chỉ cần ba mà thôi. Thế rồi ba đi.

Bao nhiêu năm qua đi, một hôm, lúc ấy tôi khoảng mười tám, tôi nghe tin ba tôi mất. Tôi suy sụp, tôi đã khóc rất nhiều. Nhưng tôi biết đó là điều khó có thể tránh khỏi. Tất cả là vì chiến tranh, vì bọn giặc tàn bạo kia. Tôi nuôi chí căm thù và sau đó tôi đi làm giao liên.

Một lần chặn địch tôi đã gặp được bác Ba. Sau một vài lời làm quen, bác đã nhận ra tôi. Bác run run đưa cho tôi cây lược ngà, bác đã thực hiện lời hứa với ba tôi. Lúc ấy tôi ngạc nhiên và xúc động lắm. Tôi biết ba đã mất nhưng tôi không ngờ ba vẫn giữ lời hứa với tôi - một cây lược. Tôi đón nhận cây lược ngà như đón nhận một kỉ vật. Đó là tấm lòng của ba tôi, là tình phụ tử thiêng liêng. Bác Ba nói dối tôi rằng ba tôi còn sống. Tôi biết bác sợ tôi buồn nên nói vậy. Lòng tôi đau thắt khi nhớ tới ba.

Nhưng cuộc gặp gỡ chỉ trong phút chốc rồi mỗi người lại đi mỗi ngả. Trước khi đi bác Ba chợt chào.

- Thôi, ba đi nghe con.

Tôi giật mình, câu ấy hơn mười năm về trước tôi đã được nghe. Giờ nó sống lại trong tôi. Một cảm giác ấm áp lạ thường.

Sau ngày đất nước thống nhất, tôi gặp lại bác Ba. Bác kể cho tôi về ba. Bác bảo ba từ khi làm được cây lược cho tôi, lúc nào cũng lấy ra chải cho cây lược thêm bóng, và cho đỡ nhớ tôi. Trước khi ra đi, ba không nói được gì. Nhưng ánh mắt của ba làm bác Ba hiểu rằng cần phải mang cây lược cho tôi. Trước khi mất, ba vẫn nghĩ đến tôi. Mãi mãi, tôi không bao giờ quên được ba.

doquynhanh

Những năm tháng chống Mĩ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong, những anh bộ đội cụ Hồ là những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hào hùng của người chiến sĩ. Hai khổ đầu bài thơ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa thật ấn tượng tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của PTD được sáng tác năm 1969 trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến.

Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha… Trong dó, hai khổ đầu bài thơ đã đã khắc họa thật ấn tượng tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa.

Hai câu thơ đầu bài thơ, nhà thơ gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi hình ảnh những chiếc xe không kính bị bom đạn tàn phá nặng nề.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Với ngôn ngữ thơ giản dị, giọng điệu thản nhiên pha chút ngang tàng, chắc khỏe như tác phong người lính; tác giả đã lí giải nguyên nhân những chiếc xe không có kính. Tác giả dùng từ ngữ phủ định “không” điệp lại ba lần, chuyển sang ý khẳng định: những chiếc xe không kính vốn không phải là một chủng loại riêng, không phải là thiết kế của những nhà sản xuất mà bởi: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.

Biện pháp tu từ liệt kê kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” làm hiện lên hình ảnh những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích của bom đạn chiến tranh.

Hai câu thơ đầu cho thấy sự ác liệt của chiến trường những năm chống Mỹ.

Nhưng không ngờ, thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Với giọng thơ bình thản, nhẹ nhàng, kết hợp từ láy tượng hình “ung dung” được đảo lên đầu câu thơ có tác dụng nhấn mạnh, gợi tư thế đàng hoàng, bình thản, chủ động của người lính lái xe. Ngồi trên ca bin những chiếc xe không kính là họ đã tự chọn làm mục tiêu nguy hiểm nhất, sẵn sàng dính bom đạn kẻ thù, vậy mà họ vẫn “ung dung”, nghĩa là không lo, không sợ, không run.

Điệp từ “nhìn”, kết hợp phép liệt kê đã miêu tả sự quan sát thật cẩn thận, bình tĩnh của một tay lái làm chủ tuyến đường, làm chủ tình huống. Người lính lái xe “nhìn đất” để quan sát đường đi đầy gập ghềnh hiểm trở, “nhìn trời” để quan sát máy bay địch”, “nhìn thẳng” về phía trước gợi tư thế chủ động thẳng tiến ra chiến trường đầy gian khổ, hi sinh nhưng không hề run sợ mà vững vàng, tự tin.

Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Nhịp thơ nhanh dồn dập như gợi ra những bước tiến ào ào băng mình của đoàn xe vận tải.

Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đập vào trong buồng lái. Điệp ngữ “ nhìn thấy”, nghệ thuật nhân hóa “ gió xoa mắt đắng”, từ láy “ đột ngột” và nghệ thuật so sánh đã diễn tả sự cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thực, sinh động của người lính do những chiếc xe không kính đem lại.

Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính. Đó là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài.

Các anh không chỉ “thấy gió vào xoa mắt đắng” mà còn “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Đó vừa là hình ảnh thực gợi tốc độ lao nhanh của đoàn xe trên đường đèo dốc đá núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng cho con đường của lí tưởng, con đường của lòng yêu nước của những người lính lái xe Trường Sơn.

Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cảlà hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.

Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, hai khổ thơ đầu của bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế ung dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử. Đọc lời thơ, ta nhận ra ở nhà thơ Phạm Tiến Duật là sự cảm phục, trân trọng dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng.

Với hai khổ thơ đầu nói riêng và bài thơ nói chung, Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình ảnh thơ độc đáo, qua đó làm nổi bật chân dung người lính lái xe Trường Sơn năm xưa với tư thế hiên ngang, dũng cảm. Toát ra từ bức chân dung ấy là vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ Việt Nam, là ý chí sức mạnh của dân tộc ta trong sự nghiệp cứu nước.

doquynhanh

Chủ đề:

Văn bản ngữ văn 9

Câu hỏi:

Khổ thơ cuối bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy là triết lí mang hàm ý độc đáo, sâu sắc của bài thơ. Đúng vậy,nghệ thuật ẩn dụ "trăng cứ tròn vành vạnh" tượng trưng cho 1 quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên không thể phai mờ. Phép nhân hóa "trăng im phăng phắc" cho thấy trăng là 1 người bạn, 1 nhân chứng nghĩa tình mà hết sức nghiêm khắc. Trăng ko một lời trách cứ, bao dung, độ lượng. Tấm lòng bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc ấy đã nhắc nhở nhà thơ và tất cả chúng ta ko bao h lãng quên quá khứ. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưnng quá khứ thì luôn tròn đầy, thủy chung và bất diệt. Ở trong câu thơ cuối, nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật đối lập: cái tròn vành vạnh của vầng trăng đối lập vs sự bạc bẽo, vô tình của cong người; cái im phăng phắc của vầng trăng đối lập vs sự giật mình của con người. Cái giật mình nhìn lại thức tỉnh của con người thật đáng quý. Giật mình để nhìn lại chính mình, để cố gắng sống tốt hơn. Cái giật mình của ăn năn tự trách, giật mình để nhắc nhở bản thân ko đc lãng quên quá khứ nghĩa tình. Hình ảnh vầng trăng cuối bài thơ đột ngột bừng sáng thành ánh trăng vô cùng độc đáo, sâu sắc. Ánh tăng là tia sáng tỏa ra từ vầng trăng. Ánh trăng có khả năng soi rọi đến những góc khuất tăm tối nhất của tâm hồn con người, ánh trăng khiếm con người bừng tỉnh nhận ra sai lầm của mình. Trăng cảm hóa con người và nhắc nhở con người phải luôn luôn nhớ về quá khứ, trân trọng quá khứ. Ánh trăng nói riêng và bài thơ nói chung nhắc nhở chúng ta phải sống đúng đạo lí dân tộc: Uống nc nhớ nguồn.