Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 4
Số lượng câu trả lời 562
Điểm GP 110
Điểm SP 512

Người theo dõi (111)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Hạt của cây có hoa gồm những bộ phận nào?

Hạt gồm những bộ phận nào

Hạt là thứ mà chúng ta nhìn thấy và tiếp xúc với chúng hằng ngày, nhưng chúng ta không hiểu rõ về cấu tạo và chức năng của từng bộ phận của hạt. bài viết sau đây sẽ hỗ trợ cho bạn một số kiến thức về hạt, những kiến thức đơn giản và cơ bản để bạn dễ phân biệt.

Dựa vào đặc điểm của phôi hạt mà ta chia hạt ra làm hai loại, đó là:

Hạt một lá mầm: điều cơ bản đầu tiên là phôi chứa một lá mầm, hạt không có phôi nhũ và chất dinh dưỡng dự trữ ở phôi nhũ.

Ví dụ: hạt ngô, hạt lúa,…

Hạt hai lá mầm: là hạt mà phôi có hai lá mầm, hạt có phôi nhũ và chất dinh dưỡng dự trữ ở hai lá mầm.

Ví dụ: hạt đỗ đen, hạt lạt, hạt nhãn hạt mít,…

Các bộ phận của hạt gồm những thành phần cơ bản sau:
Hạt một lá mầm:
- Vỏ hạt: vỏ là bộ phận bao bọc và bảo vệ phôi của hạt một lá mầm
- Phôi:
+ chồi mầm
+ thân mầm
+ lá mầm
+ rễ mầm
- Phôi nhũ: đây là bộ phận dự trữ chất dinh dưỡng của hạt.

Hạt hai lá mầm:
- Vỏ: cũng giống như hạt một lá mầm thí vỏ dùng để bao bọc và bảo vệ phôi của hạt một lá mầm
- Phôi:
+ lá mầm: đây là bộ phận dự trữ chất dinh dưỡng của hạt
+ chồi mầm
+ thân mầm
+ rễ mầm

Câu trả lời:

Bài thuyết minh giới thiệu về Hồ Gươm:

Mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời,
Càng tỏa ngát hương thơm hoa thủ đô...

Đó là những câu hát ngân nga tràn niềm tự hào về một thắng cảnh nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội - Hồ Gươm.

Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ.

Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu 10 năm của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hoá) có mò được một lưỡi gươm, sau đó lại nhặt được một cái chuôi ở ruộng cày. Gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗng một con rùa xuất hiện. Lê Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm.

Cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện của thuỷ quân nên có lúc được gọi là hồ Thuỷ Quân.

Trên hồ có hai hòn đảo: Đảo Ngọc và Đảo Rùa. Cuối thế kỷ 16, nhà Trịnh dựng phủ Chúa ở phường Báo Thiên (nay là Nhà Thờ Lớn) và ở chỗ phố Thợ Nhuộm gần hồ nên đặt tên cho hai phần hồ là Hữu Vọng và Tả Vọng. Sau đó Trịnh Doanh cho đắp ở bờ hồ, chỗ đối diện với đảo Ngọc, một gò đất có tên là gò Ngọc Bội, còn trên đảo Rùa thì cho dựng dinh Tả Vọng. Khi Trịnh suy, Lê Chiêu Thống cho đốt phá tất cả những gì do họ Trịnh dựng lên. Đến đầu thế kỷ 19, người ta dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít lâu sau chùa này không thờ Phật mà thờ thánh Văn Xương và Trần Hưng Đạo, do đó đổi chùa thành đền, tức đền Ngọc Sơn ngày nay. Năm 1864, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra sửa sang lại cảnh đền. Trên gò Ngọc Bội ông cho xây một ngọn tháp hình bút. Đó là tháp Bút ngày nay.

Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khát khao hòa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc (thanh kiếm thiêng nơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh). Do vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền tảng cho các tác phẩm của mình.

Câu trả lời:

Trong xã hội hiện đại ngày nay, yếu tố năng động và sáng tạo rất cần thiết đối với mỗi người. Bởi là nó cách duy nhất, tốt nhất để giúp con người vượt qua những ràng buộc của hoàn cảnh để vươn lên và đạt được những mục đích và đạt đến thành công.

Năng động là tích cực, chủ động, tự giác trong công việc. Tính năng động có thể tự có hoặc được hình thành và rèn luyện trong quá trình lao động.

Sáng tạo nghĩa là làm điều gì đó khác biệt, hoặc mới mẻ so với bản thân mình và với những người khác. Sáng tạo còn là say mê, tìm tòi để tạo ra những giá trị mới về vật chất, tinh thần hoặc tìm ra cái mới, cách giải quyết mới mà không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã có.

Năng động là cơ sở để sáng tạo. Sáng tạo là động lực để năng động.

Người có tính năng động dám nghĩ, dám làm, mạnh mẽ và quyết đoán trong việc làm. Họ không chờ đợi may mắn mà tự mình tìm kiếm lấy nó thông qua công việc. Họ luôn là người khởi đầu tiên phong trong mọi công việc.

Người có tính sáng tạo là người năng động làm việc và tìm tòi cái mới. Họ không dễ dàng chấp nhận những gì hiện có, sẵn có. Họ cũng không bắt chước hoặc lặp lại những cách thức cũ mà say mê tìm kiếm những cái mới mẻ, đem lại hữu ích cho cuộc đời.

Người có tính năng động và sáng tạo luôn say mê, tìm tòi và phát hiện cái mới, cái chưa từng có. Họ say mê học tập, nghiên cứu và linh hoạt xử lí các tình huống. Người năng động sáng tạo thường tìm ra cách làm mới, sản phẩm mới, hiệu quả cao, độc đáo, mới lạ.

Sáng tạo là quá trình dài hơi của suy ngẫm. Kết quả có được mới lạ khác với suy ngẫm khác ở toàn phần. Kết quả của sáng tạo có nhiều sáng kiến mới mẻ và độc đáo. Bản chất của sáng tạo thể hiện ở chỗ là sản phẩm của sáng tạo thường không lặp lại cái dã có và có ích cho người sản xuất ra nó.

Năng động, sáng tạo là phẩm chất cần thiết của người lao động trong xã hội hiện đại. Nó giúp con người có thể vượt qua những ràng buộc của hoàn cảnh. Năng động và sáng tạo làm rút ngắn thời gian để đạt được mục đích đã đề ra một cách nhanh chóng, tốt đẹp.

Câu chuyện Edison cứu mẹ là một minh chứng rõ ràng cho tính năng động và sáng tạo của con người. Lần đó, mẹ Edison bị đau bụng dữ dội. Bác sĩ nói cần phải môt ngay. Nhưng ngôi nhà nhỏ, ánh sáng ngọn nến không đủ sáng để ca phẫu thuật chính xác và thành công. Trước tình thế, Edison đăm chiêu suy nghĩ. Cậu nhanh chóng giải quyết được vấn đề bằng cách tập trung phản chiếu ánh sáng của ngọn nến bằng các chiếc gương vào vết mổ. Kết quả thật mĩ mãn. Mẹ Edison được cứu sống nhờ tư duy năng động, nhạy bén và sáng tạo của cậu bé.

Năng động và sáng tạo giúp cho con người thay đổi được lề lối cũ để hướng tới một mục đích tốt hơn. Sáng tạo nhỏ có thể làm thay đổi một cá nhân hay một tập thể. Sản phẩm của sự sáng tạo luôn có ích cho người làm ra nó và có ích cho mọi người. Sáng tạo lớn có thể thay đổi toàn tập thể lớn. Sáng tạo vĩ đại làm thay đổi mọi mặt, mọi phương diện của đời sống xã hội.

Ví như, Một giáo viên năng động và sáng tạo trong cách hướng dẫn và truyền đạt tri thức sẽ giúp học sinh hiểu bài sâu sắc, hiệu quả và chắc chắn. Đây là sáng tạo nhỏ, có ảnh hưởng ở phạm vi một tập thể. Nhà bác học Edison sáng tạo ra bóng đèn điện chiếu sáng. Cái bóng đèn kì diệu ấy đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của loài người. Đây là sáng tạo lớn, có ảnh hưởng toàn cầu.

Năng động và sáng tạo là một năng lực vô cùng quan trọng trong công việc và trong chính đời sống của mỗi người chúng ta. Đó là khả năng tìm thấy những điều mới mẻ và làm ra cái mới tiện ích hơn. Nó sẽ giúp mỗi người phát triển thêm những hiểu biết của mình. Nó làm phong phú thêm những ý tưởng mới. Nó làm tư duy nhạy bén và sâu sắc hơn trong việc tìm kiếm ý tưởng và giải quyết vấn đề khó khăn mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống hang ngày.

Chính tư duy năng động và sáng tạo mang lại niềm tin và động lực sống và cống hiến của con người. Người sáng tạo luôn nhận được về mình những phần thưởng xứng đáng. Trước hết là làm thỏa mãn khát khao sáng tạo của họ. Sau đó, sản phẩm mưới sẽ mang lại cho họ vinh dự và lợi ích vật chất to lớn.

Vì thế, hãy luôn hăng say trong công việc. Hãy luôn vận động bằng tất cả từ trí tuệ cho đến thân thể. Tính năng động và sáng tạo luôn tạo động lực để con người làm việc. Nó giúp cho con người không bị lười biếng. Năng động và sáng tạo luôn đặt con người trong trạng thái vận động, luôn trong trạng thái sẵn sàng. Nhà bác học Newton làm việc liên tục trong phòng thí nghiệm. Có khi đến hơn hai tháng ông không bước chân ra khỏi căn phòng ấy. Khi viết bộ Tấn trò đời bất hủ, nhà văn Bandac đã thức làm việc hai mươi giowf mỗi ngày. Họ đã không ngừng sáng tạo, quên đi bản thân mình vì sự tiến bộ của nhân loại

Không có động lực nào giúp ta say mê làm việc bằng tình yêu đối với công việc. Chính tình yêu công việc, tình yêu cuộc sống giúp ta làm việc không mệt mỏi. Người sáng tạo không bao giờ đi theo những suy nghĩ lối mòn. Người sáng tạo đều bị lôi cuốn bởi những trải nghiệm mới của riêng mình.

Năng động sáng tạo còn phụ thuộc vào sức khỏe của mỗi người. Người càng trẻ càng cần phải có nó để tốt cho chính mình và cũng tốt cho nhiều người khác.

Khả năng sáng tạo chỉ xuất hiện trong những môi trường nhiều kiến thức. Tức là biết kết hợp những gì mình học và tích lũy được vào làm một sản phẩm sáng tạo. Nhờ năng động sáng tạo mà con người làm nên những kì tích vẻ vang. Kết quả sáng tạo mang lại niềm vinh dự cho bản thân, gia đình, đất nước.

Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi là điển hình của tinh thần sáng tạo kì tài. Trong nhiều lần đi sứ , bằng tài năng ứng đối đề thơ và phẩm chất thông minh của mình khiến cho vua quan nhà Nguyên hết sức khâm phục. Có lần Mạc Đỉnh Chi sang sứ đúng vào dịp người hậu phi của vua Nguyên mất. Vua Nguyên đưa cho ông bài điếu văn viết sẵn bảo đọc. Khi Mạc Đỉnh Chi mở giấy ra thì chỉ thấy viết có bốn chữ “Nhất” ( một). Ông chẳng hề lúng túng, ông bình tĩnh suy nghĩ rất nhanh, rồi đọc thành bài điếu văn đầy đủ như sau:

Thanh thiên nhất đoá vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.”

Dịch nghĩa:

Một đám mây giữa trời xanh,
Một bông hoa tuyết trong lò lửa
Một đoá hoa nơi vườn thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt nước hồ
Ô hô ! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết.

Bài điếu văn độc đáo trên đã làm cho vua Nguyên rất cảm kích xúc động.Nhà vua ngộ ra cái lẻ vô thường của Đạo Phật siêu vi. Mọi sự không thể vạn tuế, vạn vạn tuế như lời chúc tụng của muôn dân thường ca tụng ông. Vạn vật phải tuân theo cái chuyển luôn biến hoại vô thường không trừ một ai.

Hiểu được cái lẽ vô sinh bất diệt đó, con người sẽ trở nên hướng thiện, biết trân quý từng giây phút để sống có ích cho cuộc đời này mà không so đo lời lỗ, thiệt hơn.

Như con ong hút mật rất nhẹ nhàng có ý thức, không làm đau bông hoa. Nó vô tư miệt mài dâng cho đời mật ngọt. Cũng giống như cuộc đời ông đã hiến dâng hết tài hoa cho đất nước. Bởi thế mà Mạc Đĩnh Chi được nhà vua phong làm Lưỡng quốc trạng nguyên, một danh hiệu cao quý xưa nay chưa từng có.

Rèn luyện tính năng động và sáng tạo trước hết phải siêng năng, cần cù, chăm chỉ. Chỉ có lao động mới chứng thực được khả năng và đức tính của con người. Chỉ có lao động mới làm lộ phát khả năng sáng tạo của con người. Hãy luôn tự giác làm mọi việc, không cần đợi người khác sai bảo hay nhắc nhở. Miễn ta thấy điều đó là thiết thực, là hữu ích thì làm. Đừng so sánh thiệt hơn, thua thắng. Đừng ỷ lại hay đua đòi với người khác. Hãy hướng đến giá trị đích thực của công việc chứ không phải thể hiện giả tạo để người khác biết đến mình.

Biết vượt qua khó khăn, thử thách để đạt đến thành công trong công việc. Không có thành quả nào đến với ta một cách dễ dàng. Thành công có được là kết tinh của trí tuệ và sức lao động miệt mài. Càng khó khăn ta càng say mê, càng quyết tâm chiến thắng.

Tìm ra cách tốt nhất, khoa học nhất để đạt được mục đích. Đó là suy nghĩ sáng suốt trong hành động. Bởi không phải cần cù, nhẫn nại là sẽ thành công. Hãy tìm cách giải quyết tốt nhất, hợp lí nhất cho mỗi công việc để tiết kiệm sức lao động và tránh những tổn thất.

Năng động là hăng hái, sôi nổi. Sáng tạo là làm ra cái mới, cái chưa từng có. Đây là hai hoạt động mang tính liên tục, có thể nghỉ nhưng ko ngưng trệ, dừng lại bởi trở ngại nào đó.

Học sinh và giới trẻ ngày nay, trong xã hội hiện đại thì càng cần phải rèn luyện năng động, sáng tạo. Bởi đó là những điều kiện tốt để con người có thể tạo dựng nên một tương lai tốt đẹp. Nó giúp ta vượt qua mọi khó khăn và nó sẽ là hành trang bất cứ nơi đâu.

Mỗi người trong chúng ta hãy có cách tư duy cho riêng mình. Hãy tăng cường thêm dũng khí để tìm ra những hướng đi cho riêng mình. Mỗi người phải sống cuộc đời của mình. Đồng thời dùng thời gian của mình để tạo ra nhiều giá trị cho cuộc sống. Và khi đã tạo ra giá trị thì lợi ích sẽ đến với mỗi chúng ta. Sáng tạo cũng là cho cuộc sống của mỗi người tốt hơn.

Con người sinh ra vốn ai cũng có khả năng tư duy, và sáng tạo. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo của con người phần lớn bị giới hạn bởi phương pháp giáo dục và những quy ước của xã hội. Muốn sáng tạo mỗi người phải dũng cảm bỏ cách nghĩ, cách làm, cách nói, và hành động mà số đông chấp nhận bạn.

Cuộc sống luôn cần phải năng động và sáng tạo. Không chỉ để cho bản thân mình mà cong cống hiến cho cộng đồng, cho đất nước. Mỗi người đều sống năng động và sáng tao để tạo ra nhiều giá trị và những điều kì diệu cho cuộc sống này thêm tốt đẹp hơn.

Câu trả lời:

Mình chỉ tìm ý thôi nhé:

Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao và đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” của ngô Tất Tố đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp và số phận bi kịch của người nông dân Việt nam trong xã hội thực dân phong kiến
- Số phận cùng khổ người nông dân trong xã hội cũ , bị áp bức chà đạp, đời sống của họ vô cùng nghèo khổ.
+ Lão Hạc một nông dân già cả sống cực kì nghèo khổ vất vả kiếm sống qua ngày. Cuộc sống ,sự áp bức của xã hội cũng như sự dồn ép của tình cảm và sự day dứt ... lão đã tìm đến cái chết để giải thoát cho số kiếp của mình.
+ Chị Dậu một phụ nữ thủy chung, hiền thục, thương chồng , thương con . Do hoàn cảnh gia đình túng quẫn, lại gặp lúc sưu cao thuế nặng, chị một mình chạy vạy bán con bán chó ...để nộp sưu cho chồng. Sự tàn bạo của xã hội bóc lột nặng nề và tình thế bức bách chị đã vùng lên đánh lại Cai lệ để bảo vệ chồng để cuối cùng bị tù tội và bị đẩy vào đêm sấm chớp và tối đen như mực....

- Nhưng ở họ có phẩm chất tốt đẹp chung thủy với chồng con, yêu thương mọi người, cần cù đảm đang, không muốn liên lụy người khác....
+ Lão Hạc Sống cần cự chăm chỉ và lão tím đến cái chết là để bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ sự trong sạch, bảo vệ tình yêu, đức hi sinh và trách nhiệm cao cả của một người cha nghèo...
+ Chị Dậu suốt đời tần tảo vì gia đình, chồng con, khi chồng bị Cai lệ ức hiếp, Chị sẵn sàng đứng lên để bảo vệ....

- Bằng ngòi bút hiện thực sâu sắc , kết hợp với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn , khắc họa nhân vật tài tình... Nam Cao cũng Như Ngô Tất Tố đẵ làm nổi bật vẻ đẹp và số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám một cách sinh động và sâu sắc. Qua đó để tố cáo xã hội bất công , áp bức bóc lột nặng nề , đồng thời nói lên lòng cảm thông sâu sắc của các nhà văn đối với những người cùng khổ ...

Câu trả lời:

Có nhiều lúc, nói dối là một cách thoát rất dễ dàng. Nhưng hãy cẩn thận, nói dối có thể làm mọi người gặp rắc rối nghiêm trọng…

Cách đây không lâu, có một vụ dối trá trong nghiên cứu khoa học gây chấn động cả thế giới xảy ra với một nhà khoa học người Hàn Quốc. Nguyên nhân chỉ do nói dối. Đó là Giáo sư Hwang Woo Suk, Đại học Quốc gia Seoul, Hàn Quốc. Ông trở nên nổi tiếng thế giới nhờ các công trình nghiên cứu về nhân bản người. Cuối năm ngoái, ông công bố nghiên cứu của ông về tế bào mầm. Nhưng sau đó, các cuộc điều tra đã phát hiện ra rằng các nghiên cứu của ông Hwang đều không có thật. Ông đã nhận rất nhiều tiền của nhà nước để nghiên cứu, nhưng lại đưa ra những kết quả giả mạo. Trong khi đó, mọi người đều đã tin ông. Ông đã nói dối cả thế giới. Hậu quả là gì? Ông đã bị mất việc, mất lòng tin của mọi người, mất danh dự. Ông còn phải đền bù lại tiền cho nhà nước. Ông ấy phải cảm thấy xấu hổ với những người đã tin tưởng mình,

Trong cuộc đời, chúng ta có gặp chuyện khó khăn, chúng ta cũng không nên nói dối. Làm như vậy sẽ gây nên hậu quả xấu. Lúc mới nói dối, chúng ta có thể thấy rằng đây là một cách thoát tội dễ dàng, không ai có thể biết được. Nhưng ngược lại, chỉ một sơ hở nhỏ là mọi thứ sẽ đổ ập xuống đầu chúng ta…

Nói dối là một điều xấu và hậu quả trước hết xảy ra đối với bản thân chúng ta. Nếu chúng ta nói dối, trước hay sau rồi cũng bị phát hiện.

Nhà văn Nga nổi tiếng Lev Tolstoi đã viết một câu chuyện rất hay về tính nói dối và hậu quả của nó:

Một thằng bé chăn cừu giả làm như nhìn thấy chó sói, lên tiếng kêu cứu:

– Cứu tôi với, chó sói! Chó sói!

Các bác mu-gích chạy đến và thấy là không có chuyện đó. Thằng bé cứ làm cái trò như vậy hai, ba lần, rồi đến lúc xảy ra chuyện chó sói đến thật.

Thằng bé lên tiếng kêu la:

– Ôi làng nước ơi, chó sói!

Các bác mu-gích nghĩ là thằng bé Lại đánh lừa như mọi lần, họ chẳng đến cứu thằng bé nữa. Chó sói thấy chẳng phải sợ hãi gì, nó tung hoành cắn chết cả đàn cừu.

Câu chuyện trên của Lev Tolstoi là một bài học cho những người hay nói dối. Nói dối một lần, người khác có thể cho qua. Nhưng tới ba, bốn lần, ta sẽ làm mất lòng tin của mọi người. Nếu không một ai tin bạn thì chắc chắn bạn sẽ là một người bất hạnh.

Với những câu chuyện trên đây, ta có thể thấy rằng nói dối là một thói xấu. Nó có thể làm cho chúng ta mất lòng tin, mất danh dự. Trung thực là một đức tính hàng đầu, ai cũng phải có nó.

Câu trả lời:

DÀN Ý CHI TIẾT

I. MỞ BÀI

- Ngày trước nhà nước phong kiến với bộ máy lãnh đạo, tức vua quan trọng triều đình, càng có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với quốc gia.

- Tìm hiểu về hai văn bản “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn và “Hịch tướng sĩ’ của vị Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, ta sẽ hiểu rõ thêm về vấn đề này.

II. THÂN BÀI

1. Văn bản: “Chiếu dời đô” với Lý Công Uẩn

- Tuy là viết theo thể loại chiếu, chuyên dùng để ban bố mệnh lệnh của vua đến nhân dân nhưng Lý Công Uẩn lại viết một cách nhẹ nhàng, phân tích kỹ càng những thuận lợi của kinh đô mới Đại La, còn có ý muốn hỏi ý kiến quần thần, dân chúng: “ .. các khanh thấy thế nào?”.

- Một người lãnh đạo anh minh còn biết chăm lo cho hạnh phúc lâu bền của chúng dân, không chạy theo cái lợi trước mắt mà quên đi cái lâu dài. Lý Công Uẩn là một trong số những vị vua anh minh như thế.

- Ông chọn kinh đô ở Đại La không phải ngẫu nhiên, mà ông đã qua quan sát, nghiên cứu thật nhiều lần. Đại La là nơi trung tâm, hội tụ của nhiều con sông lớn, lại nằm ở đồng bằng nên rất thuận tiện cho việc đi lại; nơi đây còn có mưa thuận gió hòa, đất đai màu mỡ, dân chúng sống trong sung túc, ấm no, muôn vật phong phú tốt tươi,...

- Theo Lý Công Uẩn, nó xứng đáng là "kinh đô của bậc đế vương muôn đời".

- Ông chọn kinh đô mới vì dân chúng, để phát triển đất nước chứ không cam để kinh đô nằm khuất sâu trong rừng núi, chỉ phù hợp khi cần phòng thu như Hoa Lư.

- Nhờ tầm nhìn xa trông rộng ấy mà đất nước ta vững bền đến ngàn năm và ngôi thành Đại La, sau đổi tên thành Thăng Long, tức rồng bay lên, tồn tại, gắn bó suốt mấy thế kỉ cùng với triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Lý Công Uẩn, dù là vị vua, theo chế độ phong kiến, nhưng ông đã phần nào mang đến khái niệm “dân chủ”, một khái niệm rất tiến bộ sau này, là lấy dân làm chủ, triều đinh, nhà nước chỉ đơn thuần là giúp đỡ nhân dân có được hạnh phúc lâu bền.

2. Văn bản: “Hịch tướng sĩ” với Trần Quốc Tuấn

- Hưng Đạo Vương Trần Ọuốc Tuấn lại có cách nghĩ của một vị minh tướng thời loạn lạc: có sự khoan dung, và có sự nghiêm khắc.

- Đất nước đang phải đối đầu với giặc Nguyên - Mông mạnh nhất thời bấy giờ, với số thuộc địa trải dài từ Trung Quốc đến tận Châu Âu.

- Ông biết, sự đoàn kết với lòng dân sẽ là chìa khóa cho vận mệnh đang lâm nguy của nước nhà.

- Chính ông đã đi đầu trong việc đoàn kết mọi người, bằng cách gỡ bỏ mọi hiềm khích giữa ông và nhà vua.

- “Hịch tướng sĩ’ ra đời. Bài “hịch” quả thật có tác động rất mạnh mẽ nhờ ông biết cách phân tích cái hậu quả của việc nhu nhược, yếu đuối, sợ hãi dưới góc nhìn của một người dân, chứ không phải một vị tướng và bày tỏ thái độ căm thù giặc: “dù trăm thản này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng"

- Nhờ hiểu dân, từ đó thương dân nên Trần Quốc Tuấn đã cầm được phần thẳng trong tay bọn giặc mạnh nhất.

III. KẾT BÀI

- Qua hai văn bản ‘‘Chiếu dời đô” và “Hịch tướng sĩ” đã cho tôi hiểu rõ vai trò của những vị lãnh dạo anh minh.

- Những người lãnh đạo chính là những người nắm giữ vận mệnh đất nước, chính họ đã cho tôi Việt Nam ngày hôm nay, tôi rất biết ơn họ và tự hào rằng mình là người Việt Nam.

BÀI VĂN THAM KHẢO

Thời đại nào cùng vậy, phong kiến, tư bản dân chủ cùng đều phải có người lãnh đạo. Con người ấy sẽ dẫn dắt những người khác, dạy cho họ, giúp cho họ làm được những điều tốt cho đất nước, cho xã hội. Ngày trước nhà nước phong kiến với bộ máy lãnh dạo, tức vua quan trong triều đình, càng có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với quốc gia. Qua tìm hiểu về hai vãn bản “Chiếu dời đô” của Lý Công Uân và “Hịch tướng sĩ" của vị Ọuốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, ta sẽ hiểu rõ thêm về vấn đề này.

“Quan nhất thời, dân vạn đại”, tức vua quan chỉ đơn thuần là người lãnh đạo, còn cái gốc rễ của nước nhà chính là nhân dân. Cả hai vị vua - vương anh minh Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều hiểu rõ điều ấy. Bài chiếu “Chiếu dời đô", tuy là viết theo thể loại chiếu, chuyên dùng để ban bổ mệnh lệnh của vua đến nhân dân nhưng Lý Công Uẩn lại viết một cách nhẹ nhàng, phân tích kỹ càng những thuận lợi của kinh đô mới Đại La, còn có ý muốn hỏi ý kiến quần thần, dân chúng: “... các khanh thấy thế nào?”. Còn bài “Hịch tướng sĩ' của Trần Quốc Tuấn lại đưa ta đến một khía cạnh khác của thời đại, là thời loạn lạc, nước mất nhà tan. Lúc ấy, chỉ có quân tướng, binh sĩ, nhân dân trên dưới một lòng, quyết tâm quét sạch bóng quân thù thì cuộc kháng chiến mới có thể thành công, và Trần Quốc Tuấn chính là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết. “Hịch tướng sĩ" của ông là bài hịch văn kêu gọi tướng lĩnh và binh sĩ, không hề mang tính chất áp đặt, văn chương không hề hào nhoáng, bóng bẩy nhưng lại chạm được vào con tim yêu nước của hàng vạn người dân Việt Nam nhờ sự mộc mạc của Trần Quốc Tuấn, vốn là một người cùa hoàng tộc, đặt minh vào vị trí của dân chúng: “Không những sản nghiệp của ta tiêu tan... mà nhà của các ngươi cùng không còn...”.

Dân chúng là cội nguồn của quốc gia, còn người lãnh đạo sẽ nâng đỡ cái cội nguồn đó. Thuận được lòng dân, đối đãi họ một cách hợp lí thì lo gì đất nước không hưng thịnh, trường tồn. Một người lãnh dạo anh minh còn biết chăm lo cho hạnh phúc lâu bền của chúng dân, không chạy theo cái lợi trước mắt mà quên đi cái lớn lâu dài. Lý Công Uẩn là một trong số những vị vua anh minh như thế. Ông chọn kinh đô ở Đại La không phải ngẫu nhiên, mà ông đã qua quan sát, nghiên cứu thật nhiều lần. Đại La là nơi trung tâm, hội tụ của nhiều con sông lớn, lại nằm ờ đồng bằng nên rất thuận tiện cho việc đi lại; nơi đây còn có mưa thuận gió Hoà, đất đai màu mỡ, dân chúng sống trong sung túc, ấm n0, muôn vật phong phú tôat tươi,... theo Lý Công Uẩn, nó xứng đáng là ’’kinh đô của bậc đế vương muôn đời".

Ông chọn kinh đô mới vì dân chúng, để phát triển đất nước chứ không cam để kinh đô nằm khuất sâu trong rừng núi, chỉ phù hợp khi cần phòng thủ như Hoa Lư. Nhờ tầm nhìn xa trông rộng ấy mà đất nước ta vững bền đến ngàn năm, và ngôi thành Đại La, sau đổi tên thành Thăng Long, tức rồng bay lên, tồn tại, gắn bó suốt mấy thế kỉ cùng với triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Lý Công Uẩn dù là vị vua, theo chế độ phong kiến, nhưng ông đã phần nào mang đến khái niệm “dân chủ”, một khái niệm rất tiến bộ sau này, là lấy dân làm chủ, triều đình, nhà nước chỉ đơn thuần là giúp đỡ nhân dân có được hạnh phúc lâu bền.

Hưng Đạo Vương Trần Ọuốc Tuấn lại có cách nghĩ của một vị minh tướng thời loạn lạc: có sự khoan dung, và có sự nghiêm khắc. Đất nước đang phải đối đầu với giặc Nguyên - Mông mạnh nhất thời bấy giờ, với sổ thuộc địa trải dài từ Trung Quốc đến tận Châu Âu. Ông biết, sự đoàn kết với lòng dân sẽ là chìa khoá cho vận mệnh đang lâm nguy của nước nhà. Chính ông đã đi đầu trong việc đoàn kết mọi người, bàng cách gỡ bỏ mọi hiềm khích giữa ông và nhà vua. Rồi sau đó. “Hịch tướng sĩ” ra đời. Bài “hịch” quả thật có tác động rất mạnh mẽ nhờ ông biết cách phân tích cái hậu quả của việc nhu nhược, yếu đuối, sợ hãi dưới góc nhìn của một người dân, chứ không phải một vị tướng và bày tỏ thái độ căm thù giặc: "Dù trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”. Nhờ hiểu dân, từ đó thương dân nên Trần Ọuốc Tuấn đã cầm được phần thắng trong tay bọn giặc mạnh nhất.

Ngoài những vị minh tướng, minh quân, luôn có những vị vua, vị tướng chỉ biết nhu nhược, ăn chơi và tỏ ra yếu hèn: Lê Ngọa Triều vì quá sa đọa mà lên thiết triều chỉ nằm, chứ không ngồi; Mạc Đăng Dung tự trói mình rồi đi sang Trung Quốc, dâng đất nước cho Bắc quốc;... Những con người ấy, đã làm cho vận nước lung lay, thậm chí bán nước chỉ để lo cho mạng sống, của cải của bản thân. Lúc đó, luôn có một đấng minh quân mới sẽ cứu giúp, như một quy luật: thịnh rồi suy, suy rồi thịnh của đất nước.

Thời hiện đại, không còn như thời phong kiến nữa. Tuy nhiên, đâu đâu cũng có nhà lãnh đạo, đó chính là Đảng và Chính phủ. Những con người ấy vẫn đang cần mẫn ngày đêm giúp ích cho Tổ quốc, cũng giống như những vị anh minh thời xưa .Tôi sẽ cố gắng học tập theo họ để sau này có thể trớ thành một người có ích, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc khắp năm châu.

“Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ’ cùng các vị lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn hay Trần Ọuốc Tuấn đã gợi cho tôi thật nhiều suy nghĩ. Tóm lại, có thể nó rằng: những người lãnh đạo chính là những người nắm giữ vận mệnh đất nước chính họ đã cho tôi Việt Nam ngày hôm nay, tôi rất biết ơn họ và tự hào rằng mình là người Việt Nam.