Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Phú Yên , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 6
Số lượng câu trả lời 261
Điểm GP 13
Điểm SP 209

Người theo dõi (54)

nguyen tien hung
EDOGAWA CONAN
Bùi Khánh Ly
Eren Titan

Đang theo dõi (64)

Toyama Kazuha
Hải Anh
Trâm Anhh
minh nguyệt 2004

Câu trả lời:

Trích đoạn bài phát biểu của đồng chí Lê Hồng Anh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Tây Ninh lần thứ X.

Đối với Tây Ninh, nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ tới là tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; thực hiện tốt các khâu đột phá chiến lược, tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa Tây Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, giữ ổn định biên giới quốc gia; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm nêu trên, tôi xin gợi ý nhấn mạnh thêm một số vấn đề để Đại hội nghiên cứu, thảo luận như sau:

1. Tây Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp với thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội, hầu như không bị bão, lũ lụt, giá rét, đất đai bằng phẳng, phì nhiêu, có hồ Dầu Tiếng phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống; có trục đường Xuyên Á đi qua và 240km đường biên giới gắn với 2 cửa khẩu quốc tế, là cửa ngõ giao lưu thương mại, hợp tác đầu tư phát triển kinh tế với Campuchia và khu vực ASEAN…

Tây Ninh là địa phương có truyền thống cách mạng, kiên cường, anh dũng trong kháng chiến, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, với nhiều di tích lịch sử mang tầm quốc gia, trong đó có Khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là di tích cấp quốc gia đặc biệt, có núi Bà Đen lịch sử và trung tâm tôn giáo Cao Đài, là điểm đến của đồng bào theo đạo và du khách gần xa.

Đây là những điều kiện rất thuận lợi để tỉnh phát triển toàn diện cả nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch. Do vậy, Đảng bộ cần tập trung lãnh đạo phát huy tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh, huy động, sử dụng các nguồn lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Đề nghị Đại hội đánh giá, phân tích rõ thời cơ, thuận lợi cũng như những khó khăn, thách thức, những vấn đề cản trở sự phát triển, để đề ra nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp, nhằm đưa kinh tế của tỉnh phát triển nhanh và bền vững.

2. Đảng bộ tỉnh cần tăng cường lãnh đạo để thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội. Tập trung thực hiện hiệu quả ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực để đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động, sức cạnh tranh, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương để triển khai thực hiện; coi trọng việc liên kết vùng nhằm tạo động lực phát triển mới.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng phát triển công nghiệp công nghệ cao, phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, nhất là công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp phụ trợ. Chú trọng phát triển kinh tế biên mậu, kinh tế tri thức, kinh tế xanh; quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả, hợp lý, bền vững nguồn tài nguyên của địa phương, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư gắn với xây dựng thương hiệu, quảng bá hình ảnh, tiềm năng, lợi thế của tỉnh, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế, nhất là phục vụ sản xuất và chế biến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tập trung tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhân dân và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Làm tốt công tác khuyến công, hỗ trợ doanh nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề phát triển.

Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các loại hình du lịch như: du lịch lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh, kết nối du lịch giữa các tỉnh Đông Nam bộ với Campuchia và các nước ASEAN.

Chú trọng đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, thuỷ lợi, tạo sự kết nối với các tỉnh trong vùng Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tập trung đầu tư các công trình hạ tầng trọng điểm, chiến lược, làm động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Thúc đẩy hoàn thành các tuyến đường giao thông quan trọng trên địa bàn như: đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, mở rộng và nâng cấp quốc lộ 22…

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Cơ cấu lại nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao và công nghệ sinh học vào sản xuất; phát triển các cây trồng, vật nuôi thuộc thế mạnh của tỉnh. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hoá một cách hợp lý.

3. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào cả 3 lĩnh vực: cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ khoa học, công nghệ, đội ngũ trí thức và công nhân, lao động. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động, thu hút lao động có kỹ thuật, tay nghề cao về địa phương làm việc, đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.

Gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tốt chương trình an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo, không để tái nghèo. Làm tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình.

Huy động các nguồn lực để thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở cho đối tượng chính sách, gia đình nghèo, khó khăn. Chú trọng hơn nữa trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào ở vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa.

4. Tiếp tục tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra bị động, bất ngờ. Xây dựng lực lượng quân đội, công an, biên phòng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững mạnh toàn diện; nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong mọi tình huống; bảo đảm an ninh biên giới và chủ quyền quốc gia; giữ vững và phát huy mối quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác với nước bạn Campuchia, nhất là các tỉnh giáp biên giới với Tây Ninh.

5.Chăm lo làm tốt công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đẩy mạnh cải cách hành chính. Tiếp tục triển khai thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ hơn Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW Bộ Chính trị (khoá XI) về đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tạo sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong đảng bộ, làm hạt nhân đoàn kết trong hệ thống chính trị.

Tích cực đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, không để “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng và hệ thống chính trị; tiếp tục đổi mới phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng.
Chăm lo xây dựng, kiện toàn hệ thống chính quyền các cấp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phòng, chống quan liêu, tham những, lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm minh những vi phạm xảy ra.

6. Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối Đảng và Nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.

Thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “cái gì có lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì có hại cho dân thì hết sức tránh”; thực hiện tốt chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo, tạo sự đồng thuận trong nội bộ Đảng và trong nhân dân nhằm phát huy tốt sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đề ra.

Cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác dân vận, thực hiện phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, thái độ phục vụ nhân dân. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp để lắng nghe ý kiến của nhân dân và giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng cũng như đơn, thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân.

7.Với truyền thống cách mạng trung dũng, kiên cường trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tin tưởng chắc chắn rằng Đảng bộ, dân và quân Tây Ninh sẽ tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, đoàn kết một lòng, tận dụng tốt thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức với tinh thần năng động hơn nữa, sáng tạo và quyết liệt hơn nữa đưa tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…

Câu trả lời:

câu 1 :

Hiến pháp là một hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều hiến pháp cũng bảo đảm các quyền nhất định của nhân dân. Xét về mặt nội dung, hiến pháp là đạo luật cơ bản quy định các quy tắc pháp lý quan trọng nhất của quốc gia, ấn định hình thể quốc gia, ấn định các cơ quan điều khiển quốc gia cùng những thẩm quyền của các cơ quan ấy. Hiến pháp là văn bản phản ánh tổ chức chính trị của quốc gia.

Trước khi là đạo luật cơ bản, hiến pháp phải là một đạo luật. Với tư cách là đạo luật, hiến pháp phải được tổ chức thực thi, mà đã là thực thi thì bên cạnh những hành vi thực hiện đúng, cũng có những hành vi thực thi sai, không khác nào việc thực thi các đạo luật bình thường khác.

Với tư cách là đạo luật cơ bản, tức là đặc biệt, có hiệu lực pháp lý tối cao nên việc thi hành và việc vi phạm cũng đặc biệt: Trước hết, chủ thể thi hành Hiến pháp là đặc biệt so với chủ thể thi hành các đạo luật bình thường khác. Điểm khác căn bản của Hiến pháp với các đạo luật khác ở chỗ chủ thể thi hành Hiến pháp là quan chức, mà không phải là công dân. Đó là các cơ quan, tổ chức nắm quyền lực nhà nước. Cơ quan, tổ chức quyền lực nhà nước càng có nhiều quyền lực bao nhiêu, càng phải có trách nhiệm phải thi hành hiến pháp bấy nhiêu. Bên cạnh việc thi hành là khả năng vi phạm. Đó là Nghị viện/Quốc hội, cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Đó là Chính phủ, cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đó là các cơ quan Đảng cầm quyền thông qua các hoạt động của lập pháp và hành pháp. Đó là các cơ quan chính quyền địa phương. Khác với đạo luật thường khác, việc thực thi Hiến pháp không những qua các quy định, mà còn cả tinh thần của Hiến pháp.

Thứ đến là mức độ nguy hại của các hành vi vi phạm Hiến pháp, chúng gây hậu quả rất lớn, đến nhiều người và thậm chí nguy hại cho nhiều thế hệ, cản trở sự phát triển của quốc gia, các hành vi vi phạm này thường ở tầm chủ trương chính sách.

Và cuối cùng, những hành vi vi phạm này rất khó phát hiện và rất khó xử lý. Cho đến nay, mặc dù đã có gần 200 nước có Hiến pháp, nhưng chỉ mới có dưới 10% số nhà nước có tòa án chuyên xử việc vi phạm hiến pháp của các cơ quan và quan chức nhà nước vi phạm.

Cũng như việc thi hành các đạo luật bình thường khác, thực tiễn cho thấy có hai loại hành vi vi phạm Hiến pháp:

- Hành vi hành động vi hiến là hành vi của chủ thể thực hiện hành động trái với các quy định Hiến pháp, hoặc không phù hợp với Hiến pháp. Đó có thể là hành vi của cơ quan ban hành văn bản pháp luật không phù hợp hoặc trái với Hiến pháp; hành vi của một cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm thẩm quyền (lạm quyền) mà Hiến pháp trao cho; hoặc hành vi của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào nhân danh nhà nước ngăn cản hoặc hạn chế việc thực hiện quyền và tự do hợp pháp của cá nhân người dân theo quy định của Hiến pháp.

- Hành vi không hành động vi hiến là hành vi không thực hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp không hành động (unconstitutional omission).

Trong các trường hợp mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền chậm trễ hoặc không thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về các quyền và tự do hiến định của người dân thì không bị coi là vi phạm Hiến pháp ở một số nước. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân, một khi Nhà nước ghi nhận và khẳng định quyền và tự do của người dân trong Hiến pháp đồng nghĩa với việc Nhà nước xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải bảo đảm thực hiện. Do vậy, sự thiếu hụt hay chậm trễ ban hành của các văn bản quy phạm pháp luật quy định quyền và tự do hiến định của người dân cũng phải được coi là vấn đề Hiến pháp và xem xét tính hợp hiến của hành vi không hành động của cơ quan, cá nhân được trao thẩm quyền.

Cũng giống như các đạo luật thường khác, một khi đã có hiện tượng vi phạm thì phải có sự xét xử của tòa án. Nhưng khác với đạo luật bình thường khác, việc xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp không được các nhà nước thừa nhận ngay từ đầu. Ngay cả nước Mỹ, với bản Hiến pháp thành văn đầu tiên thành khuôn mẫu của thế giới cũng rất đắn đo cho việc xét xử các hành vi vi hiến của các cơ quan quyền lực quốc gia. Trong phán quyết nổi tiếng trong vụ án Mabury kháng Madison của Chánh án Marshall làm rạng danh tên tuổi của ông có lập luận: “Hiến pháp hoặc là đạo luật tối cao, không thể thay thế bằng những phương thức bình thường hoặc nó ở hệ cấp bình thường như các đạo luật khác của ngành lập pháp và nó có thể bị ngành lập pháp thay đổi nếu muốn. Nếu lựa chọn thứ nhất là đúng, thì luật mâu thuẫn với Hiến pháp không thể là luật. Nếu lựa chọn thứ hai là đúng thì Hiến pháp thành văn là một nỗ lực ngu xuẩn của con người trong việc giới hạn quyền lực nhà nước trong bản chất vô giới hạn của nó”1.

Nước Pháp, mãi những năm gần đây mới bắt đầu thành lập Tòa án Hiến pháp để xét xử các hành vi vi hiến. Trước đó, ở họ vẫn tồn tại một Hội đồng với tư cách tư vấn cho Tổng thống về các dự án luật trước khi được Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, kết quả xét xử thắng kiện cho người khởi kiện là rất ít, theo thống kê cho thấy chỉ trong khoảng 1,5%. Nhưng con số nhỏ nhoi đó cũng đủ sức mạnh cho việc răn đe các cơ quan công quyền trong việc đối nhân xử thế với công dân, và người công dân nhỏ bé cũng cảm nhận được vị thế lớn lao của mình khi được Hiến pháp bảo vệ2.

2. Từ khẩu hiệu: Toàn Đảng, toàn dân nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật

Câu khẩu hiệu này là một trong những khẩu hiệu rất phổ biến ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây. Nhưng xét dưới giác độ lý luận và pháp lý thì câu khẩu hiệu trên không đúng một cách hoàn hảo. Bởi vì Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý tối cao được làm ra, được thông qua không phải cho nhân dân thực hiện. Người thực hiện chính, chủ thể thực hiện chính là các cơ quan nhà nước thông qua các quan chức của Nhà nước. Cơ quan nhà nước, cá nhân trong thành phần các cơ quan nhà nước càng cao bao nhiêu thì càng phải có trách nhiệm tuân thủ Hiến pháp bấy nhiêu.

Những người dân bình thường không có khả năng vi phạm Hiến pháp. Một khi Hiến pháp được thi hành nghiêm chỉnh, thì người dân chỉ được lợi mà thôi, không có điều ngược lại. Bởi lẽ, đối tượng điều chỉnh ở nghĩa hẹp nhất của Hiến pháp là giới hạn quyền lực nhà nước. Điều này cũng là dễ hiểu, vì bản thân sự hiện diện của một bản Hiến pháp thành văn và sự đòi hỏi việc tuân thủ bản hiến pháp này đã bao hàm sự giới hạn quyền lực nhà nước. Cũng như những đạo luật khác, sự hiện diện của nó đã đòi hỏi một sự tuân thủ. Nếu không có sự tuân thủ thì cũng chẳng cần đến việc chuẩn bị, việc thảo luận, rồi thông qua chúng.

Khác với các đạo luật thông thường khác, chủ thể phải có trách nhiệm thực hiện Hiến pháp là các quan chức nhà nước, mà không phải mọi công dân. “Trong tất cả mọi thời đại, các nhà lãnh đạo trong một nền dân chủ hợp hiến hành động trong phạm vi mà pháp quyền quy định và chế ước quyền lực của họ” 3. Càng có nhiều thẩm quyền bao nhiêu, càng phải có trách nhiệm thi hành Hiến pháp bấy nhiêu. Luật Hiến pháp là luật điều chỉnh lĩnh vực chính trị, chỉ có những người có chức có quyền mới có những hoạt động, hành vi chính trị. Mọi hành vi có liên quan và trong lĩnh vực chính trị đều phải chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp. Trong quá trình thực thi, cũng như trong các lĩnh vực khác, thường có sự vi phạm. Khả năng vi phạm nằm ngay trong phạm vi trách nhiệm phải thi hành của các quan chức nhà nước.

Trong khi đó, quan chức nhà nước cũng là những con người, mà không phải là thiên thần. Bên cạnh những người có đức tính vị tha, hoàn hảo, còn có những cá nhân nắm quyền lực nhưng ích kỷ, cố chấp, tham lam. “Quyền lực có xu hướng dẫn tới đồi bại, quyền lực tuyệt đối thì có xu hướng đồi bại tuyệt đối” (Huân tước Acton, người Anh). Khi tiếp cận với quyền lực nhà nước, con người thường có xu hướng lạm quyền, lộng quyền, do vậy, phải kìm chế bản tính này khi họ có quyền lực nhà nước. Đó là lý do cho sự ra đời của Hiến pháp. Từ chỗ quyền lực nhà nước thuộc về nhà Vua - không bị bất cứ một ràng buộc nào - đến chỗ có một bản hiến pháp thành văn quy định sự hạn chế quyền lực nhà nước là cả một bước tiến dài.

Báo cáo của tổ chức Ngân hàng Thế giới năm 1997 “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi” còn đưa ra cách thức để chế ước những khuyết tật của Nhà nước: “Một nhà nước hoạt động có hiệu quả có thể đóng góp rất nhiều cho sự phát triển bền vững và giảm đói nghèo. Nhưng chẳng có đảm bảo nào cho rằng, mọi can thiệp của nhà nước đều sẽ mang lại lợi ích cho xã hội. Độc quyền của nhà nước về cưỡng chế, cái mang lại cho nhà nước quyền lực can thiệp một cách có hiệu lực vào hoạt động kinh tế, cũng mang lại cho nhà nước quyền can thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền. Quyền lực này, cộng với việc thâm nhập nguồn thông tin, mà dân chúng bình thường không có được, tạo ra những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ hay những bạn bè hoặc đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn. Do đó các nước phải cố gắng thiết lập và nuôi dưỡng những cơ chế mang lại cho các cơ quan nhà nước sự mềm dẻo và sự khuyến khích để hoạt động vì lợi ích chung, đồng thời kiềm chế những hành vi độc đoán, tham nhũng trong cách cư xử với các doanh nghiệp và công dân”4.

Những cơ chế này chính là những quy định chế ước quyền lực trong pháp luật mỗi quốc gia, mà trước hết là trong hiến pháp. Tất cả những nhận định đó được gọi là Chủ nghĩa Hiến pháp (Constitutionalizm), mà cốt lõi là sự giới hạn quyền lực nhà nước để bảo vệ nhân quyền, là một phần hoặc tương đương với học thuyết Nhà nước pháp quyền (The Rule of Law).

Do các đặc điểm về lịch sử và địa lý, Việt Nam - mặc dù đã có Hiến pháp, nhưng lại ít chú trọng đến việc thực thi Hiến pháp. Vì vậy việc nghiên cứu, phân tích các hành vi vi phạm Hiến pháp chưa được đặt ra đúng mức. Không những thế, từ lâu nay, trong nhận thức của chúng ta có những người lầm tưởng rằng, Hiến pháp cũng giống như các đạo luật thường khác, được ban hành ra chỉ để cho nhân dân phải thực hiện. Nhận thức phổ biến này được minh chứng bằng biểu hiện của câu khẩu hiệu nói trên: Toàn Đảng, toàn dân nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật.

Bên cạnh đó, lâu nay, từ các giới chức cho đến người dân đều có một nhận thức không đúng khi cho rằng, Hiến pháp là đạo luật tối cao, chỉ tập trung quy định những nguyên tắc chung, mà muốn cho những quy định chung này được thực hiện, cần phải có sự cụ thể hoá bằng các đạo luật.

Trong khi đó, các hành vi vi hiến không phải là không có, hoạt động bảo hiến ở Việt Nam chỉ được hiểu và quy định ở nghĩa rộng, bao gồm các hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước cấp trên đối với các cơ nhà nước cấp dưới và cho đến tận hành vi tuân thủ Hiến pháp của các công dân. Cuối cùng, Hiến pháp giao cho Quốc hội được quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động tuân thủ Hiến pháp của mọi cơ quan nhà nước. Đây cũng là một điều phi lý, vì chính Quốc hội mới là chủ thể tiềm tàng khả năng nhất cho việc vi phạm Hiến pháp. Thứ đến là các cơ quan hành pháp, mà đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, trong danh sách các chủ thể tiềm tàng khả năng vi phạm Hiến pháp.

3. Đến việc xác định rõ chủ thể và loại hình vi phạm Hiến pháp

Như trên đã phân tích, khác với những đạo luật bình thường khác, sự vi phạm các quy định của Hiến pháp chỉ do những chủ thể nắm quyền lực nhà nước, càng cao bao nhiêu càng có khả năng vi phạm Hiến pháp bấy nhiêu. Khả năng vi phạm Hiến pháp nằm ngay trong trách nhiệm phải thi hành Hiến pháp. Chính phủ không phải là những thiên thần bao giờ cũng đúng. Họ có hai việc cần phải làm song song với nhau theo cách nói của J. Madisson: một là Chính phủ phải quản lý được người dân, hai là Chính phủ phải quản lý được chính bản thân mình5. Vì vậy, việc vi phạm Hiến pháp nếu có, trước hết phải kể đến cơ quan Quốc hội - lập pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ - hành pháp; cơ quan Chính phủ - bộ và các cơ quan ngang bộ và cơ quan Tòa án - tư pháp. Người dân chỉ có thể vi phạm luật và pháp luật, mà không có cơ hội cho việc vi phạm Hiến pháp. Ví dụ, một hành vi giết người, tức là hành vi xâm phạm đến quy định của Bộ luật Hình sự do Quốc hội - lập pháp ban hành, nhưng sẽ không xâm phạm tới các mối quan hệ được quy định trọng Hiến pháp. Đó là hành vi vi phạm pháp luật - vi pháp, chứ không phải là hành vi vi hiến. Nếu có vi hiến thì chỉ là vi phạm gián tiếp các quy định của Hiến pháp: Quyền được bảo vệ mạng sống - quyền được sống của con người được Hiến pháp bảo vệ.

Hoạt động bảo hiến, hay cụ thể hơn ở nghĩa hẹp là hoạt động tài phán Hiến pháp, phần nhiều tập trung vào hoạt động lập pháp của Quốc hội, tức là hoạt động ban hành các văn bản luật mâu thuẫn với Hiến pháp. Đáng tiếc rằng, Hiến pháp trước đây và hiện hành của Việt Nam lại giao nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ Hiến pháp cho rất nhiều chủ thể: Từ Ủy ban nhân dân cấp cơ sở cho đến cấp cuối cùng cao nhất và nặng nề nhất - là Quốc hội.

Hiến pháp năm 1992 hiện hành quy định rất nhiều điều khoản buộc phải có sự ban hành luật để thực thi, nhưng cho đến nay - sau gần 20 năm bản Hiến pháp có hiệu lực - những văn luật phải ban hành vẫn còn đang dự thảo.

Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: người dân có quyền lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. Nhưng đến nay, vẫn chưa có Luật về Hội và Luật Biểu tình. Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của người dân do Hiến pháp và luật quy định”. Theo quy định này, các văn bản dưới luật không được quy định về nghĩa vụ hoặc quy định hạn chế quyền của người dân. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, Quốc hội đã giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành một loạt Pháp lệnh quy định về quyền cơ bản của người dân. Ví dụ: các Pháp lệnh về thuế, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh phí và lệ phí… Nhiều ý kiến không đồng ý cách uỷ quyền này và cho rằng, đây là một dạng vi phạm Hiến pháp, vì Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể thay thế vị trí của Quốc hội để quy định những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền cơ bản của người dân. Điều 84 của Hiến pháp đã xác định rõ thẩm quyền của Quốc hội trong việc quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế6.

Trong hoạt động hành pháp, không tuân thủ Hiến pháp được biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật có nội dung trái với Hiến pháp về các quyền cơ bản của người dân; và việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ không đúng nguyên tắc Hiến pháp, không đúng chức năng, thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định.

Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế của người dân là những quyền Hiến định và luật định. Điều này có nghĩa là, chỉ có Hiến pháp và luật được quyền quy định về vấn đề này. Trong khi đó, nhiều nghị định của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh kèm theo. Vì lẽ đó đã xảy ra tình trạng có quá nhiều “giấy phép con”, và nhiều chính sách thuế,… được ra đời chỉ căn cứ vào các quy định của Chính phủ và các Bộ. Cũng như nhiều Hiến pháp của các quốc gia khác trên thế giới, Điều 71 và Điều 72 của Hiến pháp 1992 quy định: Người dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người dân. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.

Nhưng trên thực tế, việc bắt người trước, xét xử sau vẫn còn là phổ biến. Thậm chí hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan hành pháp quy định cả các biện pháp cưỡng chế hành chính, để gom các cá nhân mà cơ quan hành pháp tự cho là vi phạm pháp luật, đối tượng mại dâm, nghiện ma túy vào các trại tập trung cai nghiện, giáo dưỡng, mà không cần phải thông qua hoạt động xét xử của các cơ quan tư pháp.

Bên cạnh đó, trong hoạt động xét xử, hành vi vi phạm Hiến pháp thường được thấy qua các biểu hiện vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án.

Kết luận

Lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp này, bên cạnh việc tạo ra một bản Hiến pháp hoàn hảo hơn, chúng ta phải nhận thức cho được trách nhiệm thi hành Hiến pháp và khả năng vi phạm Hiến pháp, nằm ngay trong các cơ quan nhà nước, nhất là trong tổ chức và hoạt động của cơ quan lập pháp và các cơ quan nắm quyền lực nhà nước khác, chứ không phải là từ phía người dân. Người dân chỉ được hưởng lợi khi Nhà nước - thông qua các cơ quan và quan chức nhà nước - thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp. 


câu 3 :

Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại kỳ họp này đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, chắt lọc, tiếp thu được nhiều ý kiến xác đáng của nhân dân, của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Hiến pháp đã phản ánh dược ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Hiến pháp có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp.

Hiến pháp (sửa đổi) gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) với bố cục hợp lý, kỹ thuật trình bày bảo đảm đúng tầm là đạo luật cơ bản, có tính ổn định lâu dài. Sau đây là một số nội dung cơ bản của Hiến pháp (sửa đổi):

1. Về Lời nói đầu

Lời nói đầu của Hiến pháp (sửa đổi) được xâv dựng trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành, nhưng có chắt lọc, lựa chọn ý tứ, từ ngữ để nêu bật được một cách ngắn gọn tinh thần, nội dung của Hiến pháp, đã phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt được và thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

2. Về bản chất Nhà nước và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước

Điều 2 của Hiến pháp (sửa đổi) kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quvền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; khẳng định nền tảng vững chắc của chính quyền nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quy định rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, nhấn mạnh cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tại khoản 3 Điều 2. Quy định “kiểm soát quyền lực” là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, là một vấn đề mới trong tổ chức quyền lực của Nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp. Đây là cơ sở hiến định để tiếp tục thế chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan.

3. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4)

Điều 4 của Hiến pháp (sửa đổi) là kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta và đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng, đó là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên nhân dân ta thừa nhận vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng. Hiến pháp đã bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm của Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

4. Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9)

Hiến pháp (sửa đổi) đã thể hiện một cách khái quát nhất về vị trí, vai trò quan trọng và chức năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung và thể hiện rõ hơn vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tố quốc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

5. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)

Với những nội dung quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Chương II để khẳng định tầm quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của công dân thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp (sửa đổi) đã ghi nhận các quyền cơ bản của con người về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa theo các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992; đồng thời, bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước; thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân.

6. Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế (Điều 51)

Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy định như vậy không ảnh hưởng đến sự vận hành của nền kinh tế thị trường và vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế khác.

7. Về thu hồi đất (Điều 54)

Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, việc phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội là vẫn cần thiết. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thu hồi đất tràn lan, tùy tiện, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội phải gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng.

8. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 64)

Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Hiến pháp (sửa đổi) về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Hiến pháp hiện hành, khẳng định bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và là quyền cao quý của công dân. Tuy nhiên, do nội hàm bảo vệ Tổ quốc rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định khái quát "Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân” tại Điều 64; còn những vấn đề về quốc phòng, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thì được quy định tại các điều 65, 66, 67, 68 và trong các nội dung khác của Hiến pháp (sửa đổi).

9. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 70, Điều 74)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về ngân sách nhà nước, Quốc hội nhận thấy, việc nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương về ngân sách là cần thiết để địa phương chủ động trong việc triển khai ngân sách nhằm hoàn thành những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mình. Tuy nhiên, việc tách bạch hoàn toàn giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương là không phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nước ta. Nhà nước Việt Nam là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất trong quản lý, Quốc hội đại diện cho cử tri cả nước. Do đó Hiến pháp (sửa đổi) vẫn tiếp tục khẳng định, việc quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước vẫn thuộc trách nhiệm của Quốc hội.

- Do vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài nên việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ là cần thiết. Hiến pháp (sửa đổi) đã kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 về vấn đề này và quy định như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, Hiến pháp (sửa đổi) cũng giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội thẩm quyền “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Theo Hiến pháp hiện hành thẩm quyền này thuộc Chính phủ.

10. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 88)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Hiến pháp (sửa đổi) đã làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và quy định mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp. Đồng thời, đã làm rõ hơn vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước trong việc quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đôc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam...; cùng với đó là bổ sung quy định thẩm quyền của Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch quyết định việc lực lượng vũ trang nước ta tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

11. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Điều 96, Điều 98)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bổ sung chức năng thực hiện quyền hành pháp cho Chính phủ. Theo đó, Chính phủ được quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về các lĩnh vực của đời sống; kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

- Về thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Hiến pháp (sửa đổi) phân định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

12. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)

Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quvền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; đồng thời quy định một cách tổng quát về mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, làm cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.

13. Về chính quyền địa phương (Chương IX)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; có quy định nhằm khắc phục những hạn chế trong việc thành lập, nhập, chia, điều chỉnh đơn vị hành chính.

- Về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp (sửa đổi) quy định khái quát theo hướng: "Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định", việc tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương.

14. Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước (Chương X)

- Nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử...”. Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định tổng quát về Hội đồng bầu cử quốc gia, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.

- Hiến pháp (sửa đổi) cũng quy định một thiết chế hiến định độc lập là Kiểm toán Nhà nước phù hợp với thực tiễn hoạt động của Kiểm toán Nhà nước và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

* Để có căn cứ pháp lý cho việc triển khai thi hành Hiếp pháp mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp, trong dó quy định rõ thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày thông qua, thời điểm Hiến pháp (sửa đổi) có hiệu lực là từ ngày 01 tháng 01 năm 2014, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp nhằm bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và chấp hành nghiêm trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội

Câu trả lời:

- Ý nghĩa của ánh sáng
Ánh sáng là một yếu tố sinh thái, ánh sáng có vai trò quan trọng đối với các cơ thể sống. Ánh sáng là nguồn cung cấp năng lượng cho thực vật tiến hành quang hợp. Một số vi sinh vật dị dưỡng (nấm, vi khuẩn) trong quá trình sinh trưởng và phát triển cũng sử dụng một phần ánh sáng. Ánh sáng điều khiển chu kỳ sống của sinh vật.
Tùy theo cường độ và chất lượng của ánh sáng mà nó ảnh hưởng nhiều hay ít đến quá trình trao đổi chất và năng lượng cùng nhiều quá trình sinh lý của các cơ thể sống. Ngoài ra ánh sáng còn ảnh hưởng nhiều đến nhân tố sinh thái khác như nhiệt độ, độ ẩm, không khí đất và địa hình.
- Sự phân bố và thành phần quang phổ của ánh sáng.
Tất cả sự sống trên bề mặt Trái Đất tồn tại được là nhờ năng lượng chiếu sáng của Mặt Trời và sinh quyển.
Bức xạ mặt trời là một dạng phóng xạ điện từ với một biên độ các bước sóng rộng lớn. Bức xạ mặt trời khi xuyên qua khí quyển đã bị các chất trong khí quyển như O2, O3, CO2, hơi nước ... hấp thụ một phần (khoảng 19% toàn bộ bức xạ) ; 34% phản xạ vào khoảng không vũ trụ và 49% lên bề mặt trái đất.
Phần ánh sáng chiếu thẳng xuống mặt đất gọi là ánh sáng trực xạ (ánh sáng mặt trời), còn phần bị bụi, hơi nước ... khuyếch tán gọi là ánh sáng tán xạ. Có khoảng 63% ánh sáng trực xạ và 37% ánh sáng tán xạ. ánh sáng phân bố không đồng đều trên bề mặt trái đất do độ cong của bề mặt trái đất và độ lệch trục trái đất so với mặt phẳng quỹ đạo của nó quay quanh mặt trời. Do vậy ở các vùng nhiệt đới nguồn năng lượng bức xạ nhận được lớn gấp 5 lần so với vùng cực. Càng lên cao cường độ ánh sáng càng mạnh hơn vùng thấp. Ánh sáng còn thay đổi theo thời gian trong năm, ở các cực của Trái Đất mùa đông không có ánh sáng, mùa hè ánh sáng chiếu liên tục, ở vùng ôn đới có mùa hè ngày kéo dài, mùa đông ngày ngắn. Càng đi về phía xích đạo thì độ dài ngày càng giảm dần.
- Ảnh hưởng của ánh sáng lên thực vật
Độ dài bước sóng có ý nghĩa sinh thái vô cùng quan trọng đối với sinh vật nói chung và đối với động vật, thực vật nói riêng.
Ánh sáng có ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của thực vật từ khi hạt nảy mầm, sinh trưởng, phát triển cho đến khi cây ra hoa kết trái rồi chết.
Ánh sáng có ảnh hưởng khác nhau đến sự nảy mầm của các loại hạt. Có nhiều loại hạt nảy mầm trong đất không cần ánh sáng, nếu các hạt này bị bỏ ra ngoài ánh sáng thì sự nảy mầm bị ức chế, hoặc không nảy mầm, như hạt cà độc dược, hoặc hạt của một số loài trong họ Hành (Liliaceae). Trái lại có một số hạt giống ở chỗ tối không nảy mầm được tốt như hạt cây phi lao, thuốc lá, cà rốt và phần lớn các cây thuộc họ Lúa (Poaceae).
Ánh sáng có ảnh hưởng nhất định đến hình thái và cấu tạo của cây. Những cây mọc riêng lẽ ngoài rừng hay những cây mọc trong rừng có thân phát triển đều, thẳng, có tán cân đối. Những cây mọc ở bìa rừng hoặc trên đường phố có tường nhà cao tầng, do có tác dụng không đồng đều của ánh sáng ở 4 phía nên tán cây lệch về phía có nhiều ánh sáng. Đặc tính này gọi là tính hướng ánh sáng của cây.
Ánh sáng còn ảnh hưởng đến hệ rễ của cây. Đối với một số loài cây có rễ trong không khí (rễ khí sinh) thì ánh sáng giúp cho quá trình tạo diệp lục trong rễ nên rễ có thể quang hợp như một số loài phong lan trong họ Lan (Orchidaceae). Còn hệ rễ ở dưới đất chịu sự tác động của ánh sáng, rễ của các cây ưa sáng phát triển hơn rễ của cây ưa bóng.
Lá là cơ quan trực tiếp hấp thụ ánh sáng nên chịu ảnh hưởng nhiều đối với sự thay đổi cường độ ánh sáng. Do sự phân bố ánh sáng không đồng đều trên tán cây nên cách sắp xếp lá không giống nhau ở tầng dưới, lá thường nằm ngang để có thể tiếp nhận được nhiều nhất ánh sáng tán xạ; các lá ở tầng trên tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng nên xếp nghiêng nhằm hạn chế bớt diện tích tiếp xúc với cường độ ánh sáng cao.
Ngoài ra cây sinh trưởng trong điều kiện chiếu sáng khác nhau có đặc điểm hình thái, giải phẫu khác nhau. Trên cùng một cây, lá ở ngọn thường dày, nhỏ, cứng, lá được phủ một lớp cutin dày, mô giậu phát triển, có nhiều gân và lá có màu nhạt. Còn lá ở trong tầng bị che bóng có phiến lá lớn, lá mỏng và mềm, có tầng cutin mỏng, có mô giậu kém phát triển, gân ít và lá có màu lục đậm.
Ánh sáng có ảnh hưởng đến quá trình sinh lý của thực vật, trong thành phần quang phổ của ánh sáng, diệp lục chỉ hấp thụ một số tia sáng. Bằng những thí nghiệm, Timiriadep đã chứng minh được rằng, những tia sáng bị diệp lục hấp thụ mới phát sinh quang hợp. Cường độ quang hợp lớn nhất khi chiếu tia đỏ là tia mà diệp lục hấp thụ nhiều nhất.
Khả năng quang hợp của các loài thực vật C3 và C4 khác nhau rất đáng kể. Ở thực vật C4 quá trình quang hợp tiếp tục tăng khi cường độ bức xạ vượt ngoài cường độ bình thường trong thiên nhiên (như ở Zea mays,Saccharum officinarum, Sorghum vulgare...). ở thực vật C3, quá trình quang hợp tăng khi cường độ chiếu sáng thấp, nhất là các cây ưa bóng. Thực vật C3 gồm các loài Triticum vulgare, Secale cereale, Trifoliumrepens...
Liên quan đến cường độ chiếu sáng, thực vật được chia thành các nhóm cây ưa sáng, cây ưa bóng và cây chịu bóng. Cây ưa sáng tạo nên sản phẩm quang hợp cao khi điều kiện chiếu sáng tăng lên, nhưng nói chung, sản phẩm quang hợp đạt cực đại không phải trong điều kiện chiếu sáng cực đại mà ở cường độ vừa phải (optimum). Ngược lại cây ưa bóng cho sản phẩm quang hợp cao ở cường độ chiếu sáng thấp. Trung gian giữa 2 nhóm trên là nhóm cây chịu bóng nhưng nhịp điệu quang hợp tăng khi sống ở những nơi được chiếu sáng đầy đủ. Đặc điểm cấu tạo về hình thái, giải phẩu và hoạt động sinh lý của các nhóm cây này hoàn toàn khác nhau thể hiện đặc tính thích nghi của chúng đối với các điều kiện môi trường sống khác nhau. Do đặc tính này mà thực vật có hiện tượng phân tầng và ý nghĩa sinh học rất lớn.
Ánh sáng có ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình sinh sản của thực vật. Tương quan giữa thời gian chiếu sáng và che tối trong ngày - đêm gọi là quang chu kỳ. Tương quan này không giống nhau trong các thời kỳ khác nhau trong năm cũng như trên các vĩ tuyến khác nhau. Quang chu kỳ đã được Garner và Alland phát hiện năm 1920. Liên quan đến độ dài chiếu sáng, thực vật còn được chia thành nhóm cây ngày dài và cây ngày ngắn. Cây ngày dài là cây ra hoa kết trái cần pha sáng nhiều hơn pha tối, còn ngược lại, cây ngày ngắn đòi hỏi độ dài chiếu sáng khi ra hoa kết trái ngắn hơn.
- Ánh hưởng của ánh sáng đối với động vật
Ánh sáng rất cần thiết cho đời sống động vật. Các loài động vật khác nhau cần thành phần quang phổ, cường độ và thời gian chiếu sáng khác nhau. Tùy theo sự đáp ứng đối với yếu tố ánh sáng mà người ta chia động vật thành hai nhóm :
- Nhóm động vật ưa sáng là những loài động vật chịu được giới hạn rộng về độ dài sáng, cường độ và thời gian chiếu sáng. Nhóm này bao gồm các động vật hoạt động vào ban ngày, thường có cơ quan tiếp nhận ánh sáng. Ở động vật bậc thấp cơ quan này là các tế bào cảm quang, phân bố khắp cơ thể, còn ở động vật bậc cao chúng tập trung thành cơ quan thị giác. Thị giác rất phát triển ở một số nhóm động vật như côn trùng, chân đầu, động vật có xương sống, nhất là ở chim và thú. Do vậy, động vật thường có màu sắc, đôi khi rất sặc sỡ (côn trùng) và được xem như những tín hiệu sinh học
- Nhóm động vật ưa tối bao gồm những loài động vật chỉ có chịu được giới hạn hẹp về độ dài sáng. Nhóm này bao gồm các động vật hoạt động vào ban đêm, sống trong hang động, trong đất hay ở đáy biển sâu. Nhóm động vật này có màu sắc không phát triển và thân thường có màu xỉn đen. Những loài động vật ở dưới biển, nơi thiếu ánh sáng, cơ quan thị giác có khuynh hướng mở to hoặc còn đính trên các cuống thịt, xoay quanh 4 phía để mở rộng tầm nhìn, còn ở những vùng không có ánh sáng, cơ quan tiêu giảm hoàn toàn, nhường cho sự phát triển cơ quan xúc giác và cơ quan phát sáng.
Ở một số loài động vật có khả năng tiếp nhận những tia sáng khác nhau của quang phổ ánh sáng mặt trời mà mắt người không tiếp thu được. Một số loài động vật thâm mềm dưới nước sâu và Rắn mai gầm có thể tiếp thu tia hồng ngoại. Ong và một số loài chim có thể phân biệt được mặt phẳng phân cực ánh sáng mà con người hoàn toàn không nhận biết, ngoài ra chúng còn có thể nhìn thấy được quang phổ vùng sóng ngắn trong đó có cả tia tử ngoại nhưng không nhận biết được tia sáng màu đỏ (có độ dài sóng lớn). Ong chính nhờ tiếp thu được mặt phẳng phân cực ánh sáng nên xác định được vị trí của mình mà định hướng được địa phương thậm chí cả khi Mặt Trời bị mây che lấp.
Nhiều loài động vật định hướng nhờ thị giác trong thời gian di cư. Đặc biệt nhất là chim, những loài chim trú đông bay vượt qua hàng ngàn kilômét đến nơi có khí hậu ấm hơn nhưng không bị chệch hướng.
Qua nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng ánh sáng sau khi kích thích cơ quan thị giác, thông qua trung khu thần kinh gây nên hoạt động nội tiết ở tuyến não thùy, từ đó ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát dục ở động vật.
Ví dụ: Để rút ngắn thời gian phát triển ở cá hồi (Salvelinus fontinalles) người ta tăng cường độ chiếu sáng. Hoặc như cá chép nuôi ở những ruộng lúa vùng Quế Lâm (Trung Quốc) do ảnh hưởng của ánh sáng mạnh, nhiệt độ cao, nên tuy cơ thể cá còn nhỏ (150-250 gam) nhưng đã thành thục sinh dục sớm (1 tuổi). Dựa vào hiện tượng đó, ngư dân vùng Quảng Đông (Trung Quốc) đã thúc đẩy cá chép đẻ sớm bằng cách hạ mực nước trong ao nuôi vào mùa xuân để tăng cường độ ánh sáng và nhiệt độ nước cho cá thành thục sinh sản sớm.
Thời gian chiếu sáng của ngày có ảnh hưởng đến hoạt động sinh sản của nhiều loài động vật. Người ta nhận thấy rằng cá hồi (Salvelinus fontinalles) thường đẻ trứng vào mùa thu, nhưng nếu vào mùa xuân tăng cường thời gian chiếu sáng hoặc giảm thời gian chiếu sáng về mùa hè cho giống với điều kiện chiếu sáng mùa thu thì cá vẫn đẻ trứng.
Ở nhiều loài chim vùng ôn đới, cận nhiệt đới, sự chín sinh dục xảy ra khi độ dài ngày tăng.
Một số loài thú như cáo, một số loài thú ăn thịt nhỏ; một số loài gậm nhấm sinh sản vào thời kỳ có ngày dài, ngược lại nhiều loài nhai lại có thời kỳ sinh sản ứng với ngày ngắn.
Ở một số loài côn trùng (một số sâu bọ) khi thời gian chiếu sáng không thích hợp sẽ xuất hiện hiện tượng đình dục (diapause) tức là có thể tạm ngừng hoạt động và phát triển

TỰ THAM KHẢO NHA :)