Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Bắc Ninh , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 5
Số lượng câu trả lời 214
Điểm GP 22
Điểm SP 148

Người theo dõi (10)

Đang theo dõi (14)

Linh Trần
Lục Danh
 Mashiro Shiina
Thảo Phương

Câu trả lời:

Bao mong chờ, háo hức rồi mùa hè cũng đã đến. Em mong ngóng những ngày tháng ấy không chỉ bởi được nghỉ ngơi sau thời gian dài học hành vất vả mà còn bởi em sẽ được lên thành phố Lào Cai nghỉ hè. Ở đây, em đã được chiêm ngưỡng một cảnh đẹp – một niềm tự hào của thành phố Lào Cai: công viên Nhạc Sơn. Thành phố Lào Cai là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và công sức lao động, dựng xây của con người. Nằm ở sát biên giới Việt Trung, thành phố được trang bị những cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho mục đích thương mại. Đời sống nơi đây cũng nhộn nhịp, đông đúc hơn những huyện lị trong tỉnh. Bao quanh cái lòng chảo vừa hiền hòa vừa sóng sánh ấy là những dãy núi uy nghiêm, sừng sững xanh ngát bốn mùa. Nằm yên ả giữa lòng thành phố, công viên Nhạc Sơn là một cảnh đẹp tiêu biểu cho những nét đặc trưng của thành phố giáp biên này. Từ những ngôi nhà cao tầng xung quanh nhìn xuống, công viên nổi bật với một hồ nước trong trẻo, lấp lánh như một viên ngọc quý. Đó là hồ nước tự nhiên, và từ đây con người tạo ra những kiến trúc nhân tạo của một công viên vừa tự nhiên vừa hiện đại. Từ cổng chính của công viên bước vào, du khách dễ dàng nhìn thấy hồ nước và một cây cầu cong cong dẫn ra nhà Thủy Tọa được thiết kế đứng giữa hồ nước. Đó là một tòa nhà năm tầng khá đồ sộ được trang bị cửa kính, đèn màu dùng làm khu ăn uống, vui chơi cho khách đến công viên. Đã bao nhiêu năm nay, Thủy Tọa đứng nghiêng nghiêng soi bóng bên hồ như núi cao làm duyên với sông dài biển rộng. Nhất là vào những ngày có nắng hoặc vào những đêm trăng, sóng hồ lăn tăn xôn xao gợn biết bao gợn vàng gợn bạc, bóng nhà Thủy Tọa cũng theo đó rung rinh như xúc động trước một vẻ đẹp quá đỗi yêu kiều, tinh tế. Thêm phần sinh động cho bức tranh vốn đã rất hữu tình đó là hàng liễu rủ chạy sát bờ hồ. Các cô điệu đàng quanh năm soi gương trang điểm. Bóng dáng thướt tha, phơ phất của các nàng in xuống ven hồ khiến ta ngờ ngợ đó là hàng mi dài cong vút viền quanh đôi mắt trong veo của người thiếu nữ Lào Cai… Chạy quanh bờ hồ không chỉ có hàng liễu rủ mà còn có con đường nhỏ được xây lát bằng gạch đỏ. Cả hai tạo ra hai đường cong song song chạy ven bờ hồ. Giữa hai người bạn chí tình ấy là bãi cỏ xanh rì, chỗ thì bằng phẳng, chỗ lại nghiêng nghiêng như lòng máng. Chiều hè, nếu được lăn mình trên đó mà ngắm trời xanh mây trắng và hưởng làn gió trong thổi từ hồ vào thì thật tuyệt! Viền ngoài con đường đi là một vòng đất khá rộng. Ở đó cũng mang một sắc xanh tươi mát của các loài cây lớn: hoa sữa, cây si, cây đa… Những cây có dáng thẳng còn được trang điểm bằng những dây đèn màu chạy quanh thân từ gốc đến ngọn. Như thế, vào buổi tối trông chúng chẳng khác nào những cột ánh sáng, cột lửa đứng chống trời. Chạy xen với các loài cây thân gỗ, thỉnh thoảng ta lại bắt gặp một vài bãi cau, bãi dừa và vài chiếc ghế tựa. Đó là nơi để khách đến công viên được nghỉ ngơi, trò chuyện cho thư thái tâm hồn. Đặc biệt, chạy ở phía ngoài cùng của công viên là hai đồi thông. Chúng như nửa vầng trăng đối nhau. Nếu không có hồ nước cùng con đường, trảng cỏ… ở giữa hẳn chúng đã hợp lại với nhau thành vầng trăng thanh tròn trịa ngày rằm. Hai đồi thông cao hẳn lên so với mặt bằng của công viên. Những cây thông còn nhỏ nhưng nhìn đã rắn rỏi với hàng thân nâu tươi và tán lá xanh rì mạnh mẽ. Chỉ thời gian ngắn nữa thôi, khi những cây thông non này trưởng thành, hai đồi thông sẽ giống như hai dãy núi kiên cường bao bọc lấy hồ nước cùng những người bạn thủy chung gắn bó giống như những dãy núi biên cương sừng sững mấy chục năm nay vẫn giang rộng vòng tay giữ gìn bảo vệ thành phố Lào Cai được yên bình, phát triển. Một điều đặc biệt nữa khiến Nhạc Sơn trở nên ấn tượng với những người khách đáng yêu của mình là công viên rất sạch. Mặt hồ như rộng ra, trong hơn vì không có những thứ rác sinh hoạt trôi nổi trên mặt nước. Bãi cỏ cũng như rộng hơn, xanh hơn vì không có vỏ kẹo, giấy bỏ… Đến với công viên, ta không chỉ thầm cảm ơn thiên nhiên phóng khoáng, thầm cảm phục ý tưởng sáng tạo của nhà thiết kế mà còn thấy biết ơn những người dân Lào Cai rất đỗi bình dị, đơn sơ đã biết giữ gìn đất quý, đất yêu của thiên nhiên đất trời và của cả con người. Vẻ đẹp tinh tế, thuần khiết của công viên Nhạc Sơn đã để lại trong em những ấn tượng sâu đậm. Nghĩ đến Nhạc Sơn, em thêm yêu thêm quý mảnh đất quê hương của mình. Và chắc chắn, trong buổi học đầu tiên của năm học mới, em sẽ không quên kể cho các bạn nghe về công viên xinh xắn này cùng những kỉ niệm đẹp đẽ mà em đã có nơi đây

Câu trả lời:

Thị Kính là một phụ nữ đã tài sắc vẹn toàn lại hiếu thảo hết lòng, được bố mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ – một thư sinh đẹp trai, chăm học. Một lần đọc sách mệt, Thiện Sĩ ngủ thiếp đi. Thị Kính ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, liền tri hô là vợ định giết mình. Thế là Thị Kính mang tội tầy đình, bị chồng ruồng bỏ, xã hội lên án. Tình ngay lý gian, không sao giãi bày được nỗi oan, Thị Kính cắn răng chịu tủi nhục, quay về nhà cha mẹ. Nhưng rồi nỗi oan khổ cũng chẳng biết thổ lộ cùng ai, nàng bèn quyết tâm đi tu, trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên. Đang đêm, nàng cắt tóc, cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng oan, bởi thiên hạ đồn là bỏ nhà theo trai...Thật sự thì nàng tìm đến nương nhờ nơi cửa Phật để cõi lòng được bằng an, và được yên phận với những tháng ngày còn lại, nhưng nào có được như thế. Sư cụ, không hề biết nàng là gái, bèn nhận nàng cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm. Trong làng có Thị Màu, con gái của một phú ông, có tính lẳng lơ, đi lễ chùa, thấy Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm. Bao lần Thị Màu tán tỉnh nhưng “chú tiểu” Kính Tâm vẫn cứ thản nhiên, càng làm cho Thị Màu say mê. Quen thói trăng hoa, Thị Màu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai và bị làng phạt vạ. Thị Màu bèn vu vạ cho Kính Tâm ăn nằm với thị. Vì thế Kính Tâm bị làng đòi đến tra khảo, không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này. Sư cụ thấy “chú tiểu” bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng nộp khoán. Dù thương xót Kính Tâm, nhưng vì sợ ô danh chốn thiền môn nên sư cụ cũng phải để Kính Tâm ra ở ngoài mái tam quan. Thị Màu sanh con trai, đem đứa bé bỏ trước cổng chùa. Động lòng từ bi, Kính Tâm ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng.Ngày ngày, Kính Tâm phải bế đứa bé đi xin sữa khắp đầu làng cuối xóm trong sự cười chê của thế gian. Ba năm sau, Kính Tâm yếu hẳn đi, trước khi mất, viết một lá thư dặn đứa bé giao lại cho cha mẹ mình. Đứa bé vội lên chùa trên báo cho sư cụ. Lúc đó, mới hay Kính Tâm là đàn bà. Khi lá thư của nàng về đến quê thì mọi người biết nàng không phải là gái giết chồng. Nỗi oan tình của Thị Kính từ đó được tỏ, nhưng vẫn còn đọng lại một điều gì đó quá nặng nề với người đời. Cần phải nhận thấy rằng, việc Kính Tâm nhận cái thai của Thị Màu cũng có nhiều nguyên nhân ẩn sâu bên trong. Là một người phụ nữ, Kính Tâm nhận thấy được cuộc sống và tình cảm của Thị Màu có những uẩn khúc riêng. Việc “không chồng mà chửa” của Thị Mầu (người phụ nữ) đối với đạo đức nghiệt ngã của xã hội thời bấy giờ là một tội trạng quá cỡ. Hình phạt có thể là gọt tóc bôi vôi rồi thả bè trôi sông. Vì vậy chúng ta có thể hiểu thêm, việc Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm không đơn thuần chỉ là hành động vu oan giá họa cho kẻ tu hành mà đó thực sự là kêu cứu lòng từ bi cứu khổ cứu nạn của phật. Và đây là điều cao cả chỉ có ở Kính Tâm – một người xuất gia, lại là nữ giới, sự kết tinh của từ bi, trí tuệ và tư chất hai ấy chính là lí do để Kính Tâm chịu oan để Thị Mầu bớt khổ. Như thể “nhẫn vô sanh nhẫn” ở đây hoàn toàn đâu phải là thái độ phản kháng tiêu cực và thụ động. Nhẫn ở đây là nhẫn nhục hiền hòa, là nhẫn điều khó nhẫn, là hy sinh chính mình, chịu oan chịu khổ thay người khi cuộc đời đang còn tràn đầy bất công nghiệt ngã. Từ lôgic này mà việc Thị Mầu đem con bỏ trước cổng chùa là sự gửi gắm đúng địa chỉ. Tính hợp lí ở đây không đơn giản chỉ vị Thị Mầu thấy Kính Tâm mặc nhiên chịu oan nhận tội mà quan trọng hơn, Thị đã nhận ra được đức từ bi quảng đại của bậc chân tu này. Âu, đây cũng là bước để người ta xét lại con người Thị, những hành động mà Thị đã làm. Đối lập hoàn toàn với Thị Kính là Thị Màu, Thị Màu lẳng lơ, sàm sỡ, táo bạo. Thị Màu đáng giận, đáng trách. Vì Thị Màu mà THị Kính bị oan, phải nuôi con trong chốn thiền môn. Từ chuyện tích này, dân gian có thành ngữ “oan Thị Kính” để so sánh với những nỗi oan khuất cùng cực mà không sao giãi bày được. Từ thành ngữ nói trên, đã hình thành một thành ngữ phái sinh là “oan Thị Màu” để nói đến việc đã rõ ràng mười mươi là do mình gây ra nhưng vẫn cứ kêu oan, như Thị Màu bị dân làng bắt vạ vì không chồng mà chửa mà vẫn cho rằng mình… oan! Thực ra, Thị Màu đáng thương hơn đáng trách, đáng giận, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Bởi vì người phụ nữ có quyền yêu nhưng không được yêu, có quyền được làm mẹ nhưng lạ không thể kàm mẹ. THị Màu yêu say đắm Kính Tâm nhưng không được đáp trả, nàng vốn có tính lẵng lơ nên đã tư thông với tên người hầu để phải chửa. Nàng chửa, rồi đổ vạ cho Kính Tâm khiến cho Kính Tâm phải chịu oan. Nhưng rồi tới khi sinh con cũng không được cha cho nuôi, bắt đem đứa con ấy đến chùa. Xót xa thay! Tình máu mủ đâu có thể nói bỏ là bỏ được. Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau rồi phải mang đứa con mình ra trước cổng chùa, để phó mặc nó sống sao thì sống, ai mà không xót xa, thương cảm cho được. Như vậy, chẳng phải Thị Màu đã trở thành một kẻ đáng thương rồi sao?
Chiếu chèo sân đình tái hiện lại một Thị Màu thực dám sống, dám yêu và dám làm những điều chống lại xiềng xích của chế độ cũ - chế độ không cho người phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Xét cho cũng, dù Thị Màu là con nhà Phú ông, là người có nhiều tính xấu nhưng số phận cũng gống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát!
Nhắc đến hình tượng nhân vật Thị Màu, chúng ta cảm thấy động lòng khi đọc lại bài thơ "Thị Mầu" của nhà thơ Anh Ngọc: "...Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Mầu, Những cánh màn đã khép lại đàng sau Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt, Bao Thị Mầu trở về với đời thực Vị táo còn chua mãi ở đầu môi." Đáng phải nghĩ, đáng để chúng ta được suy xét lại khi phán xét một con người đáng thương trong xã hội cũ!

Câu trả lời:

Tuyên Quang cách Hà Nội 165 km đường bộ (theo Quốc lộ 2), về phía Bắc; diện tích tự nhiên 5.868 km 2; dân số trên 720 ngàn người, với trên 22 dân tộc cùng chung sống. Tuyên Quang giáp với các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái nguyên, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc.

Tuyên Quang là một tỉnh giàu truyền thống cách mạng, là nơi khởi phát, nơi hội tụ, giao thoa của những sắc thái văn hoá riêng của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc; với lễ hội truyền thống đặc sắc, những truyền thuyết, những làn điệu dân ca ngọt ngào, những cảnh đẹp nên thơ do thiên nhiên ban tặng và 467 di tích lịch sử trên địa bàn - Tuyên Quang là một bảo tàng cách mạng, một điểm đến hấp dẫn đối với khách du lịch .
Ai đã từng một lần đến với Tuyên Quang sẽ khó có thể quên được thị xã Tuyên Quang thơ mộng, soi bóng xuống dòng sông Lô. Nơi đây còn lưu dấu ấn bàn tay tài hoa của con người trên những di tích, kiến trúc nghệ thuật, đình chùa, đền miếu, trong đó có nhiều di tích được xếp hạng cấp Quốc gia như: Thành nhà Mạc, đền Hạ…
Đến Tuyên Quang, du khách sẽ được thăm Khu du lịch Văn hoá - Lịch sử và Sinh thái Quốc gia Tân Trào - Thủ đô khu Giải phóng và Thủ đô Kháng chiến, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và hầu hết các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương đã sống và làm việc trong thời kỳ kháng chiến gian khổ. Nơi đây, có nhiều di tích lịch sử nằm giữa những cánh rừng đại ngàn mãi mãi đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam như:Đình Hồng Thái-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân đầu tiên khi Người từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào ngày 21 tháng 5 năm 1945, đây cũng là nơi đón tiếp các đại biểu về dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, tháng 8 năm 1945; Lán Nà Lừa - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc từ cuối tháng 5 đến ngày 22 tháng 8 năm 1945. Trong thời gian này, Người đã chỉ thị thành lập khu giải phóng: Thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng, thành lập Trường Quân chính kháng Nhật, chủ trì Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng, dự Quốc dân Đại hội Tân Trào; Đình Tân Trào, nơi diễn ra Quốc dân Đại hội từ ngày 16 đến ngày 17 tháng 8 năm 1945 với hơn 60 Đại biểu. Đại hội đã thông qua Nghị quyết giành chính quyền toàn quốc và hơn 10 chính sách lớn của Việt Minh, bầu Uỷ ban dân tộc giải phóng do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và quy định Quốc kỳ, Quốc ca của nước Việt Nam mới; Cây đa Tân Trào, tại đây ngày 16 tháng 8 năm 1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đọc Bản quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa, chỉ huy đơn vị Giải phóng quân tiến về giải phóng Hà Nội …
Thiên nhiên đã ban tặng cho Tuyên Quang nhiều hang động, hồ, thác nước đẹp, những cánh rừng nguyên sinh, như: Thác Pắc Ban và rừng nguyên sinh (Na Hang), hang Bó Ngoặng (Chiêm Hoá), Động tiên (Hàm Yên)...

Thăm Khu Du lịch - Sinh thái Na Hang, du khách sẽ được ngắm nhìn thác Pắc Ban như một dải lụa trắng nằm trên thảm rừng xanh, rừng nguyên sinh Na Hang với hệ sinh thái có nhiều loại động thực vật quý hiếm, đặc biệt có loài Voọc mũi hếch đã được ghi trong Sách Đỏ thế giới, được ngắm nhìn chín mươi chín ngọn núi, đỉnh Pác Tạ cao vút như muốn vươn lên chín tầng mây, được nếm hương vị ngọt, cay, nồng, ấm, đậm men say của rượu Ngô Na Hang.
Xuôi về Chiêm Hoá, du khách sẽ được thăm 24 di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh đã được công nhận cấp Quốc gia thuộc các xã: Kim Bình, Phú Bình, Kiên Đài, Yên Nguyên, Vinh Quang.
Đến với Hàm Yên, du khách được thăm quần thể hang động nối tiếp nhau trải dài vài ki-lô-mét như: Động Tiên, động Thiên Đình, hang Thạch Sanh, động Quốc Phòng…với nhiều cảnh đẹp hoang sơ, kỳ bí; ngoài ra, du khách còn được đi du thuyền trên mặt hồ Khởn, ngắm nhìn những đồi cam chín mọng, vàng ruộm 2 bên bờ và thưởng thức những trái cam Sành Hàm Yên ngọt, mát, thơm ngon. Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm với rừng núi yên bình, không khí trong lành cũng luôn là điểm du lịch hẫp dẫn các du khách, ở đây có nguồn nước khoáng thiên nhiên được các nhà địa chất học người Pháp phát hiện từ năm 1923, rất trong, nóng tới 670C được lấy trực tiếp từ mạch nước sâu hơn 150m, chứa nhiều nguyên tố vi lượng có tác dụng phục hồi sức khoẻ và chữa rất tốt các bệnh về cơ, khớp, xương.... Tương lai, đây sẽ là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng được quy hoạch với 6 phân khu chính, gồm: khu vui chơi giải trí và nghỉ dưỡng, khu lâm viên, khu trang trại, khu đón khách và dịch vụ tổng hợp, khu cơ sở và đầu mối hạ tầng.
Sau mỗi tour du lịch, du khách sẽ được thưởng thức những món ăn đặc sản của Tuyên Quang như: Cá Dầm xanh - Anh vũ, cơm lam, xôi ngũ sắc…
Người Tuyên Quang nhân hậu, giầu lòng mến khách. Thiếu nữ Tuyên Quang thanh lịch, dịu dàng và duyên dáng. Với những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, Tuyên Quang đã sẵn sàng phục vụ du khách trong và ngoài nước ghé thăm.

Câu trả lời:

Tôi là cây lúa. Họ hàng nhà lúa chúng tôi có mặt ở nhiều nơi trên thế giới đã mấy ngàn năm nay. Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng tôi đã gắn bó thân thiết với con người. Bằng hạt gạo – hạt ngọc của trời ban cho; Lang Liêu đã làm nên bánh chưng, bánh giầy, tượng trưng cho Trời và Đất – để kính dâng mừng thọ vua Hùng. Cuộc đời cây lúa chúng tôi gắn liền với niềm vui, nỗi buồn của con người.

Chúng tôi lớn lên từ những hạt thóc giống chín mẩy, vàng ươm. Sau mấy tháng nằm nghỉ ngơi trong bồ lúa, anh em chúng tôi được đem ra ngâm vào nước ba sôi hai lạnh. Nước ấm làm chúng tôi tỉnh hẳn người. Sự sống trong chúng tôi bừng dậy. Chúng tôi uống no nước và rồi vài ngày sau, những chiếc rễ trắng tinh đã nhú ra. Một sớm mai hồng, chúng tôi được đem gieo trên những mảnh ruộng phẳng như chiếu trải. Mùi bùn ngai ngái khiến chúng tôi ngây ngất. Ánh nắng ấm áp ban ngày, làn sương mát dịu ban đêm giúp chúng tôi nảy mầm đâm lá thành những cấy mạ xinh xinh. Cô bác nông dân chăm sóc chúng tôi kĩ lắm. Đủ nước, đủ phân nên chị em chúng tôi lớn nhanh như thổi, chẳng mấy chốc đã ra dáng những cây mạ trưởng thành.

Thế rồi vào một ngày đẹp trời, chúng tôi được nhổ lên, bó thành từng bó. Từ đó, chị em chúng tôi bước qua một giai đoạn mới của cuộc đời: từ cây mạ biến thành cây lúa. Cứ vài ba dảnh mạ được cấy thành một gốc. Gốc này cách gốc kia mỗi chiều chừng ba tấc. Đang quen sống quây quần ấm áp bên nhau, giờ bị tách riêng ra, chúng tôi cảm thấy trống trải và lạnh lẽo vô cùng! Phải mất chừng hơn tuần, chúng tôi mới bén rễ trên đất mới. Màu xanh của lá thẫm dần và thân thể chúng tôi cứng cáp hẳn lên. Bộ rễ cần cù hút màu mỡ nuôi cây. Dần dà, chúng tôi đã trở thành những bụi lúa đầy đặn và tươi tốt. Bụi nọ mọc sát bên bụi kia tạo thành một tấm thảm xanh mênh mông, mỗi lần gió thổi qua lại dập dờn như sóng biển.

Ngày tháng trôi qua, chúng tôi đã thành lúa thì con gái và được chăm sóc kĩ lưỡng hơn. Các cô bác nông dân thường xuyên nhổ cỏ, bón phân, xịt thuốc trừ sâu rầy phá hoại lúa nên sức khỏe của chúng tôi rất tốt. Một hôm, trong gió sớm thoang thoảng mùi thơm ngọt thật dễ chịu. Đầu bờ, có tiếng reo vui: A, lúa đã làm đòng rồi đây này, bà con ơi! Rồi những bàn tay vuốt ve trìu mến trên thân lúa. Chúng tôi thầm cảm ơn những bàn tay chai sần, rám nắng của người nông dân một nắng hai sương vất vả trên đồng ruộng.

Bao mồ hôi của họ đã đổ xuống đất này. Họ hàng nhà lúa chúng tôi không phụ ơn người. Tháng năm, mùa lúa chín, cả cánh đồng phủ một màu vàng rực như kén tằm. Màu vàng của nắng, màu vàng của lúa làm sáng cả một vùng quê thanh bình, gợi cảm giác ấm no, sung túc.

Đoàn người tay liềm tay hái để ra đồng gặt lúa. Tiếng cắt lúa soàn soạt, tiếng máy tuốt lúa rào rào xen lẫn tiếng nói cười rộn rã. Âm thanh náo nức vang khắp cánh đồng. Theo chân người, chúng tôi về với từng sân phơi. Tới đâu tôi cũng thấy những đông lúa như những đông vàng cao ngất – sản phẩm của một vụ mùa bội thu. Quang cảnh xóm làng thật nhộn nhịp và trong lòng chúng tôi cũng trào dâng một niềm vui khó tả. Sau mấy ngày phơi mình dưới ánh nắng vàng chói chang, chúng tôi được quạt sạch rồi đổ vào bồ, vào vựa. Có chúng tôi, người nông dân sẽ có được nhiều thứ hàng hoá cần thiết phục vụ cho đời sống. Chính chúng tôi đã tạo nên những ngôi nhà ngói mới, thay thế những mái tranh nghèo. Bộ mặt nông thôn ngày càng tươi đẹp lên là nhờ sự đóng góp không nhỏ của họ hàng nhà lúa chúng tôi. Chúng tôi vui sướng vì đã giúp ích cho con người. Nhân đây, chứng tôi xin gửi đến các bạn học sinh lời nhắn nhủ chân thành đã có cách đây hàng ngàn năm: Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.