Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 17
Số lượng câu trả lời 619
Điểm GP 104
Điểm SP 553

Người theo dõi (106)

Vũ Thị Phương
Phuong Nguyen
Cai Xuting

Đang theo dõi (38)


Câu trả lời:

Lão Hạc là một nông dân bình thường, phải sống trong áp bức bóc lột của xã hội phong kiến. Vợ mất, con trai vì không cưới được vợ mà phẫn chí đi làm đồn điền cao su. Lão thương con, mong muốn con được hạnh phúc… nhưng lão cũng không biết làm cách nào để chu toàn hạnh phúc cho con, chỉ biết khóc mà nhìn con đi. “Đồn điền cao su đi dễ khó về”. Lão biết chứ, nhưng cũng có thể nào cản được?! Hằng ngày, lão chỉ biết quanh quẩn với con chó Vàng – kỉ vật duy nhất của người con. Lão thương yêu, chăm sóc nó cẩn thận đến mức chia cho nó từng miếng ăn, cho nó ăn vào bát và trò chuyện với nó như người bạn. Lão cưng chiều nó không phải vì nó là một con chó đẹp, cho khôn. Lão thương nó vì nó như mối ràng buộc duy nhất còn sót lại của lão và con trai lão. Lão xem nó như con, và khi lão nhìn nó, lão lại nhớ con trai mình…

Lão thương con, vâng, và thà rằng dù chết đói lão cũng không muốn bán đi một sào vườn. Lão sợ nếu lão bán, mai này con trai lão có trở về thì nó sẽ ở đâu mà sống? Ở đâu mà lập nghiệp sinh nhai?! Một sự thật hiển nhiên, rằng nếu lão bán đi mảnh vườn thì lão sẽ vượt qua được giai đoạn khốn khó. Nhưng lão không bán! Vì sao? Vì, lão-thương-con.

…Tuổi già, cô đơn và nghèo đói!...

Cuộc đời đau khổ dồn ép lão đến bên bờ vực thẳm, không còn cách nào khác, lão đánh phải đứt ruột mà bán đi con chó Vàng lão hằng yêu thương; để rồi khi bán xong, lão lại hu hu khóc như con nít vì đã trót lòng lừa gạt một con chó…

Rồi lão sang nhà ông Giáo, gửi ông ba mươi đồng bạc và nhà trông coi hộ mảnh vườn. Kể từ sau hôm đó, lão Hạc chỉ ăn khoai. Khi khoai hết thì lão chế được món gì, ăn món ấy; rồi đến chuối, sung luộc, rau má,…

Dù đói nghèo là vậy, nhưng lão cũng tuyệt không bị tội lỗi cám dỗ. Lão không theo Binh Tư ăn trộm hay cố nương nhờ vào ai để sống. Thử hỏi một người dù chết cũng không muốn làm phiền hàng xóm làm sao dám làm gánh nặng cho ai? Thời đó khổ lắm, lão khổ, láng giềng cũng đâu thua gì… Ông Giáo âm thầm giúp lão, lại bị lão từ chối một cách gần như là “hách dịch” đấy thôi…!

Rồi … cái gì đến cũng phải đến. Cái chết đến bất ngờ và hơi đột ngột, lão chết trong đau đớn, tủi hờn. Chết vì ăn bả chó! Lão có thể lựa chọn cho mình cái chết nhẹ nhàng hơn, nhưng lão vấn lựa chọn cách chết như một con chó. Là … lão hận mình đã lừa chết “cậu” Vàng sao?

Câu trả lời:

Vấn đề tai nạn giao thông (TNGT) là chuyện gây nhiều chết chóc và cũng gây nhiều tranh cãi nhất tại Việt Nam, sau khi nhà cầm quyền đã ban hành rất nhiều luật lệ để giảm bớt số người chết, nhưng việc thi hành thì vẫn trì trệ vì nạn tham nhũng hối lộ lan tràn.Hơn đâu hết, là con người, không vì bất cứ lý do gì mà chúng ta tự hủy họai bản thân cũng như hủy họai kẻ khác bằng bất cứ phương tiện gì. Tham gia giao thông an toàn, không tai nạn, là mơ ước của nhiều người trong cuộc sống đầy biến động như hôm nay.
Một trong những mối lo ngại thường trực của người dân trong nước, nhất là người nước ngoài, Việt kiều, khi bước chân ra đường, là nạn ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông. Hàng chục ngàn người chết vì tai nạn giao thông mỗi năm ở nước ta, trong thời gian gần đây, là một con số đầy nhức nhối. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2008, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7.936 vụ, làm chết 7.122 người, bị thương 6.048 người. Như vậy, so với 6 tháng đầu năm trước, số tai nạn giao thông tăng 3,9%, số người bị thương tăng 1,8% và điều đáng quan ngại là số người chết tăng đến 9,9%, có nghĩa là số vụ tai nạn giao thông ngày càng đặc biệt nghiêm trọng.

Nguyên nhân gây nên căn bệnh trầm kha này đã được chẩn đoán. Đó là tình hình vi phạm trật tự, an toàn giao thông vẫn rất phổ biến và không có chiều hướng thuyên giảm: nạn đua xe gắn máy trái phép, xe khách chở quá số người quy định với số lượng lớn, gây tai nạn giao thông, làm chết và bị thương nhiều người vẫn chưa được triệt để ngăn chặn… Tai nạn giao thông ở Việt Nam có thể nói đã thành đại dịch. Nhưng sự quan tâm của toàn xã hội đối với vấn đề này còn hạn chế. Phải chăng do chúng ta không nhìn thấy hơn 11.000 người chết do TNGT một lúc mà chúng ta còn thờ ơ với vấn đề này. Tai nạn giao thông đang ngày ngày gặm nhấm tài lực và vật lực của nước ta.

Theo một ước tính của Ngân hàng phát triển Châu Á, thiệt hại về người và vật chất do tai nạn giao thông ở Việt Nam một năm là vào khoảng 885 triệu đô la. Như vậy mỗi năm chúng ta đã tự làm mất đi khoảng 1 tỷ đô la, trong khi nhà nước ta còn nghèo và phải cạnh tranh mạnh mẽ với các nước láng giềng nhằm tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên sự mất mát về kinh tế mới chỉ phản ánh được một phần của vấn đề. Tai nạn giao thông còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến một hình ảnh Việt Nam an toàn mà chúng ta vẫn quảng bá với thế giới. Ngành du lịch đang được nước ta rất chú trọng phát triển thành ngành ‘công nghiệp không khói’, và thực tế nó đã và đang đóng góp rất đáng kể vào nguồn thu của quốc gia. Ngoài các tiềm năng du lịch khác, một hình ảnh Việt Nam an toàn đang là một yếu tố thu hút khách du lịch đến với nước ta, nhưng nếu mỗi con đường của Việt Nam trở nên trật tự và an toàn hơn, chắc chắn hình ảnh đất nước ta còn hấp dẫn hơn đối với du khách.

Thực tế, bên cạnh đó,ý thức công dân của một bộ phận không nhỏ nhân dân ta còn quá kém (đặc biệt là giới trẻ, tính tự do, coi thường kỷ cương pháp luật,đã ăn sâu vào tiềm thức của một bộ phận công dân, lối sống đua đòi, thiếu trách nhiệm với cộng đồng đang trở thành phổ biến trong giới trẻ, trung niên...) Chúng ta đã buông lỏng về giáo dục ý thức công dân cho nhân dân, nhất là giới trẻ và trong học đường. Các biện pháp về giáo dục kiến thức pháp luật trong cộng đồng của chúng ta chưa đủ tầm, chưa thường xuyên để tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức. Các biện pháp chế tài của chúng ta chưa đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn sự bùng phát TNGT. Nhận thức về nguy cơ tiềm ẩn do TNGT của các cấp chính quyền chưa thực sự đầy đủ nên các biện pháp đấu tranh, ngăn ngừa TNGT chưa được quan tâm đúng tầm; thực thi pháp luật về trật tự an toàn giao thông hiệu quả, chất lượng kém.Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của các phương tiện giao thông.

Để giải quyết trọn vẹn một vấn đề, lẽ dĩ nhiên phải bắt nguồn từ gốc, rễ. Căn nguyên của thực trạng giao thông hiện nay, trách nhiệm đứng đầu vẫn là nhà chức trách. Vẫn biết rằng, với thực trạng giao thông như hiện nay, các nhà chức trách hữu quan phải hao tổn rất nhiều tâm huyết, sinh lực. Trong khuôn khổ bài viết, để giảm thiểu tai nạn giao thông, nhà chức trách cần phải thực hiện một số động thái sau:

* Thứ nhất, khảo sát toàn bộ các tuyến giao thông trọng điểm, nơi thường xảy ra tai nạn, tìm nguyên nhân chính xác và đưa ra giải pháp phòng ngừa. Phải có chiến lược cụ thể đối với việc phát triển và hoàn thiện hạ tầng hệ thống giao thông. Phải xem sự chậm trễ, gian dối trong công trình giao thông là một hành vi gắn liền với tội ác.
* Thứ hai, phải xây dựng được ý thức đạo đức của mọi người dân trong việc tham gia giao thông. Ý thức đạo đức trong tham gia giao thông sẽ là cánh tay đắc lực cùng với luật pháp, chấn chỉnh và hoàn thiện nếp sống văn hóa của mọi người khi tham gia giao thông.
* Thứ ba, khảo sát những phương tiện vận chuyển hành khách và những con người làm công tác đó. Phải có một qui chuẩn khắt khe đối với người điều khiển phương tiện cũng như phương tiện vận chuyển công cộng.
* Thứ tư, tăng cường đội ngũ công an giao thông, tuần tra. Nếu như lực lượng công an giao thông, thanh tra giao thông chưa đáp ứng, có thể tạm thời vận dụng những lực lượng khác hỗ trợ như quân đội, công an vào những cung đoạn giao thông nguy hiểm vào thời điểm cần thiết như ngày cuối tuần, ngày nghỉ lễ…Phải ý thức rằng, an toàn giao thông như là một mục tiêu chiến lược quan trọng của thời bình.
* Thứ năm, thiết lập lại cơ chế lương bổng đặc biệt phù hợp với điều kiện sống thực tế của công an giao thông, khen thưởng kịp thời và trong sạch hóa, thanh lọc hóa đội ngũ những người làm công tác điều phối giao thông. Với con số thương vong do tai nạn giao thông đang ngày càng tăng lên như hiện nay, có thể xem vấn đề an toàn giao thông là sách lược cần kíp trước mắt, là cuộc chiến lâu dài mà chúng ta cần phải chiến thắng để xây dựng con người và phát triển đất nước.

Thời gian qua các bạn đã được chứng kiến những chính sách mạnh mẽ của đảng và nhà nước trong việc giảm số vụ số tai nạn giao thông. Một trong những hành động của chiến dịch đó là vận động đội mũ bảo hiểm khi sử dụng phương tiện giao thông cơ giới cùng với luật bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên một số tuyến đường. Nhưng hiện nay, sự chấp hành cũng như ý thức thực hiện đúng mức. Lí do sau được đưa ra để biện minh: “Đội mũ bảo hiểm làm tóc của tôi rối tung lên hết. Nó khiến tôi trông thật ngố. Nó vừa nóng lại vừa nặng nề, nó làm hạn chế tầm nhìn và thính giác của tôi.Tôi chỉ chạy xe trong thành phố thôi thì cần gì phải đội mũ bảo hiểm nhỉ!Tôi chưa bao giờ bị tai nạn trước đây nên không có lý do gì để phải đội mũ bảo hiểm.”

Nhưng hãy xem những con số dưới đây: Trong tháng 7 cả nước xảy ra 1.032 vụ TNGT, làm 923 người chết và 624 người bị thương. Tính chung 7 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 7.494 vụ TNGT, làm 6.844 người chết và 4.902 người bị thương; giảm 15,44% số vụ, 14,01% số người chết và 28,53% số người bị thương so với cùng kỳ năm 2007. Theo số liệu của Bệnh viện Việt - Đức, từ đầu tháng 8 đến nay, ngày nào Bệnh viện cũng phải tiếp nhân khoảng 40 bệnh nhân bị tai nạn giao thông (TNGT). Cụ thể là ngày 22/8 có 51 người; ngày 23/8 có 42 người. Theo thống kê, những người thiệt mạng do tai nạn giao thông chủ yếu là đàn ông, trụ cột của gia đình. Những người vợ xót xa khi mất đi người chồng thân yêu, đứa con nghẹn ngào trong dòng lệ vì tới đây sẽ chẳng còn được vòng tay người cha âu yếm vỗ về, bảo ban dạy dỗ trên đường đời. Họ mang đến sự thương tâm cho toàn xã hội.Đó là một con số đáng suy nghĩ. Và trên thực tế mỗi chúng ta, đều có thể ý thức được rằng nguy hiểm luôn luôn ở xung quanh chúng ta nhưng nhiều người vẫn không chịu mang mũ bảo hiểm bên mình để bảo vệ bản thân. Thậm chí, những người từng bị tai nạn giao thông cũng tỏ ra coi thường lợi ích của việc mang mũ bảo hiểm.

Hãy lắng nghe lời tâm sự của bạn 1 bạn trẻ dưới đây:

“Tên tôi là Huỳnh Thanh Trúc. Khi tôi lên 6 tuổi, cha tôi mất trong một tai nạn giao thông. Nỗi đau mất mát luôn ám ảnh tôi. Nó xảy ra quá bất ngờ, các vụ tai nạn giao thông bao giờ cũng xảy ra đột ngột như thế. Mất người thân do tai nạn giao thông là một nỗi đau mà bạn không thể quên trong suốt quãng đời còn lại. Nó huỷ hoại chính bạn. Bạn không cần gì cả, đối với bạn, điều quan trọng nhất là bạn muốn níu kéo người cha của mình sống lại, nhưng dĩ nhiên, đây chỉ là một ước mơ, một điều vọng tưởng, vốn dĩ sẽ không bao giờ xảy ra”.

Hi vọng sau khi đọc bài này bạn sẽ suy nghĩ về việc đội mũ bảo hiểm khi đi ra đường. Điều đó hoàn toàn có lợi cho bạn chứ không phải ai khác.

Quyết tâm hạn chế tối đa những thiệt hại về người và tài sản do tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông gây ra, lập lại trật tự ATGT, góp phần nâng cao nhận thức cho tất cả người khi tham gia giao thông là mục tiêu trọng yếu mà các cấp, các ngành và toàn xã hội sẽ nỗ lực thực hiện trong thời gian tới. Mong rằng, những kết quả đã đạt được trong công tác đảm bảo trật tự ATGT sẽ không dừng lại ở việc thay đổi những con số mà sẽ tạo ra những chuyển biến lớn về nhận thức trong mỗi người.

Câu trả lời:

a.Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ.
~>Tác giả đã điệp từ "nghe" để nhấn mạnh nỗi xúc động của người chiến sĩ khi nghe tiếng gà trưa. Thông qua đó ta có thể cảm nhận được tình yêu quê hương thắm thiết của người lính trẻ.
b.Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
~>Tác giả đã điệp từ "vì" để nhấn mạnh nguyên nhân khiến người chiến sĩ ra đi chiến đấu. Không phải bắt nguồn từ những nguyên nhân to lớn nào khác mà chính là vì bà, nơi quê hương thân thuộc có tiếng gà cục tác, ổ trứng hồng tuổi thơ.
c.Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
~>Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh: “hăng, phăng, vượt” và sử dụng nghệ thuật so sánh “chiếc thuyền nhẹ” với “con tuấn mã”, làm gợi lên vẻ đẹp, sự dũng mãnh của con thuyền.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
~>“Cánh buồm” được so sánh với “mảnh hồn làng”, thể hiện tình yêu quê hương luôn tiềm tàng trong con người Tế Hanh. Được sử dụng một lần nữa, động từ, tính từ mạnh: “giương, rướn, bao la” đã cho ta thấy một vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự hào của cánh buồm vi vu trong gió biển.
d. Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
~>Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu thơ diễn tả bước đi cảu thời gian.
Giáy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
~>Các từ buồn, sầu như thổi hồn vào sự vật cùng với phép nhân hóa đã khiến cho giấy đỏ, mực tàu vốn vo tri bỗng trở nên có hồn có suy nghĩ như con người.

Câu trả lời:

ho tàng ca dao vô cùng phong phú. Nó diễn tả muôn vàn tình cảm của nhân dân ta. Đẹp đẽ nhất là ca dao nói về tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước.
Với lời lẽ mềm mại và trong sáng, ca dao đã phác thảo lên một đất nước tuyệt đẹp trước mắt mọi người. Từ Lạng Sơn hùng vĩ có núi Thành Lạng, có sông Tam Cờ, đến Thủ đô Hà Nội được ca dao vẽ nên với những “phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ” luôn khiến lòng người ngẩn ngơ:
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.
Và ca dao còn đưa ta tới xứ Huế mộng mơ với giọng hò xa vọng:
Lờ đờ bỏng ngủ trăng chênh
Giọng hò xa vọng thắm tình nước non.
Chúng em thấy rõ trong ca dao một “Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”. Những câu ca dao ấy đầy sức truyền cảm, càng làm cho em thêm yêu đất nước Việt Nam.
Ca dao còn bồi đắp cho tuổi thơ chúng em tình cảm gắn bó thân thiết với quê hương làng xóm. Làng ta nhỏ bé, đơn sơ mà thắm đượm tình người. Với tinh yêu xóm làng tha thiết, ca dao gợi lên trước ta một làng quê ở “phong cảnh hữu tình, dân cư giang khúc như hình con long”. Tuy cuộc sống phải dãi nắng dầm mưa, nhưng niềm vui vẫn tăng lên gấp bội khi đồng lúa ngày một xanh tốt. Sự cần cù lao động dường nhưđược ca đao biến thành sự kì diệu của thiên nhiên cho đất nước.
Nhờ trời hạ kế sang đông
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi
Vụ năm cho đến vụ mười
Trong làng kẻ gái người trai đua nghề.
Tinh cảm của người dân gắn chặt với làng quê. Công việc mệt mỏi nhưng thật vui: Ngày ngày tháng tháng nghiệp nghề truân chuyên.
Đồng lúa quê hương tuy bình dị, nhưng lại đẹp trong con mắt của những người yêu làng quê mình. Ca dao đã vẽ nên một cánh đồng lúa xanh mướt và tình cảm cũng dạt dào.
Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bút ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Ca dao làm cho ta thường thây rõ từng cây lúa một trong cả cánh đồng lúa rộng mênh mông đó:
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai.
Để có được ngày hôm nay, bao anh hùng đã ngã xuống. Các câu ca dao xưa còn in sâu những nét đó.
Lạy trời cho cả gió lên,
Cờ vua Bình Định bay trên khung thành.
Với tấm lòng quý trọng, nhân dân xưa luôn mong ước hòa hình trên đất nước. Họ mong muốn gió nổi thật to để cờ nghĩa quân của đức vua hay phần phật trên khắp mọi miền.
Đống Đa ghi để lại đây
Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc An.
Chính ca dao đã giúp em thêm hiểu về cội nguồn lịch sử vẻ vang.
Ca dao xưa thực sự là một nguồn tình cảm vô cùng phong phú, nó bồi đắp cho mọi lứa tuổi, đặc biệt là tuổi thơ chúng em, một tình cảm sâu sắc với quê hương đất nước và lòng tự hào về dân tộc.

Câu trả lời:

Chú bé Hồng trong Trong lòng mẹ chính là nhà văn Nguyên Hồng thuở thiếu thời, phải chịu nhiều cay đắng trong cảnh nghèo khổ và mồ côi. Tập hồi kí Những ngày thơ ấu của ông rất xuất sắc. Đoạn văn trích trên đây, dù chỉ phác qua một cảnh nhỏ, cũng cho ta thấy nỗi lòng đau khổ của bé Hồng trong những ngày xa mẹ, sống và niềm sung sướng tột độ trong giây phút gặp lại mẹ - người mẹ yêu quý, đáng thương nhất của mình, bấy lâu chờ mong, khao khát.

Bé Hồng thương yêu mẹ sâu sắc. Mặc dù gần một năm trời sống bơ và đói rách giữa thái độ ghẻ lạnh và nhất là những lời lẽ cay nghiệt của người cô nói xấu mẹ mình, lòng yêu thương mẹ của Hồng không vì thế mà suy giảm. Ngược lại, bé càng thông cảm với mẹ hơn. Hồng đã rất sớm nhận ra cái bất công của cổ tục làm khổ nhục mẹ mình và xót xa mẹ đến “cổ họng nghẹn ứ” muốn “vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kỳ nát vụn mới thôi” cái cổ tục ấy nếu như nó cụ thể như hòn đá, cục thủy tinh. Lòng thương yêu, kính trọng mẹ đã giúp Hồng trước sau nhận rõ ác ý của người cô cay nghiệt vẫn thấy mẹ mình phải được che chở, phải được sống đàng hoàng giữa cuộc đời. Trong lòng chú bé, nguyên vẹn người mẹ rất đáng yêu, rất đẹp với “gương mặt vẫn tươi sáng, đôi mắt trong và nước da mịn... tươi đẹp như thuở còn sung túc”. Trong sâu thẳm cảm giác vẫn nguyên sự ấm áp “mơn man khắp da thịt”, “hơi quần áo... hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra thơm tho lạ thường”, sau bấy lâu xa vắng, giờ lại được ngồi gọn trong lòng mẹ. Giây phút thiêng liêng đến xúc động!

Chính vì rất yêu thương mẹ và trong lòng bao giờ cũng chỉ thấy có mẹ là gần gũi, thương xót mình nhất, nên bé Hồng luôn cảm thấy buồn tủi trong cảnh sống nhờ. Trước thái độ miệt thị của người cô, Hồng “im lặng, cúi đầu xuống đất, lòng thắt lại, khóe mắt cay cay”, có lúc “nước mắt tôi đã ròng ròng...” khi người mẹ xiết mãi nỗi đau ấy. Ngay cả lúc bất ngờ gặp mẹ, nỗi mừng của Hồng cũng . .... chứa cái tủi, khiến chú “òa lên khóc, rồi cứ thế nức nở” trong lòng mẹ.

Một chuỗi ngày nén yêu thương, tủi hờn cũng là chuỗi ngày Hồng khao khát muốn gặp mẹ. Nỗi khao khái ấy thể hiện rõ trong bước chạy “ríu cả chân lại" của chú bé. Nỗi khao khát ấy khiến chú bé hình dung đến sự tuyệt vọng ghê gớm của người đi giữa sa mạc gặp ảo ảnh dòng nước, nếu bị nhận lầm dáng mẹ. Cảm giác ấm áp sung sướng tuyệt vời “đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt” khi được trong lòng mẹ, cho ta thấy nỗi khao khát ấy cụ thể, xúc động biết chừng nào.

Phải như bé Hồng trong phút lăn vào lòng mẹ, “được bàn tay mẹ vuốt ve và gãi rôm ở sống lưng cho”, mới cảm thấy hết một nỗi “êm dịu vô cùng” mà chỉ mẹ mới có thể cho ta.

Chúng ta, ít người rơi vào cảnh đời cay đắng ấy, vì có mẹ chăm sóc, che chở. âu yếm. Em cũng may mắn như thế. Chính vì thế mà em cảm thương nỗi đau của thuở nhỏ Nguyên Hồng, nỗi đau của thân phận sống bơ vơ đầy tủi nhục, thèm khát tình thương. Qua tâm trạng của chú bé Hồng, em hiểu hơn những bạn nhỏ vì chiến tranh, vì thiên tai phải mất cha mẹ, họ khổ đau biết chừng nào. Dù xã hội, bà con có cưu mang, nuôi ăn học nhưng làm sao lấp nổi nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng những đứa con xa mẹ, mất mẹ. Nỗi đau ấy đeo đẳng con người suốt một đời. Và cũng suốt một đời, tìm đâu thấy Kìn tay quen thuộc vuốt ve âu yếm, lời ngọt ngào, trách mắng mến yêu, ruột thịt chỉ có ở mẹ. Hình ảnh và tâm tư của bé Hồng đã xúc động lòng em, khiến em thấy đầy đủ mọi niềm vui của mình được sống có mẹ là rất quý báu.