Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 2
Số lượng câu trả lời 163
Điểm GP 28
Điểm SP 208

Người theo dõi (49)

Auto Kute
chiến lê
Nguyễn Thu Trang

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

- Sinh sản vô tính là hình thức sinh sản mà thế hệ con được sinh ra từ một cơ thể mẹ duy nhất, và thừa hưởng các gen chỉ từ cơ thể mẹ đó. Sinh sản hữu tính là một quá trình tạo ra một sinh vật mới bằng cách kết hợp vật chất di truyền từ hai sinh vật.

- Có 8 hình thức sinh sản vô tính:

+ Sinh sản phân tách

+ Sinh sản bằng chồi

+ Sinh sản sinh dưỡng

+ Sự phát sinh bào tử

+ Sự phân mảnh

+ Agamogenesis

+ Trinh sản (parthenogenesis)

+ Apomixis và Nucellar embryony

- So sánh:

+ Sinh sản vô tính diễn ra ở một cá thể sinh vật như ở động vật cấp thấp, các loài vi sinh vật, thực vật… không cần phân tính và cũng không cần hai cá thể đực và cái. Từ một cơ thể không cần biết giới tính diễn ra quá trình sinh sản vô tính từ ngay chính cơ thể mẹ. sau quá trình sinh sản vô tính sẽ tạo ra một cá thể mới giống hoàn toàn với cơ thể mẹ về thông tin di truyền hay bộ ADN sinh vật mẹ và có thể nó đó là bản sao của cơ thể mẹ ít có sự khác biệt.
Một số kiểu sinh sản như thế này không qua quá trình giảm phân tạo giao tử một cách bình thường như ở các động vật hoặc thực vật mà là quá trình tạo cơ thể mới từ cơ thể mẹ, và quá trình sinh sản sinh dưỡng cũng là một trong những kiểu sinh sản vô tính như thế.
+ Sinh sản hữu tính chỉ diễn ra ở các sinh vật có phân tính hoặc diễn ra một cách đơn giản ở một số sinh vật cấp thấp và đòi hỏi có hai cơ thể. Quá trình sinh sản hữu tính diễn ra có sự trao đổi thông tin di truyền giữa hai cơ thể bố và mẹ để cuối cùng tạo ra một cơ thể mới có bộ gene khác với cơ thể bố mẹ (là một tổ hợp mới của bộ gene từ bố và mẹ). nếu có sự phân tính thì chính bộ gene sẽ quy định giới tính ở đời con.
Sinh sản kiểu này không cần phải luôn có giới tính (chỉ cần hai cá thể), sinh sản tiếp hợp và một số kiểu sinh sản khác ở các loài cấp thấp, trong sinh sản hữu tính cũng bao gồm sinh sản có thực hiện giảm phân ở các tế bào nhân thực.

__Chúc bạn học tốt__

Câu trả lời:

Quang Trung Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh đổ cả hai tập đoàn thống trị phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, người đã lập nên những chiến công hiển hách chống quân xâm lược Xiêm và Mãn Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc vào cuối thế kỷ thứ 18.
Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong hoạt động quân sự, ông chủ động tập trung lực lượng đánh vào những mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất và hành động liên tục, bất ngờ, chớp nhoáng, quyết liệt làm cho đối phương không kịp đối phó.
Nguyễn Huệ còn là nhà chính trị sáng suốt. Từ mục tiêu trước mắt của phong trào nông dân là đánh đổ chế độ áp bức Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Huệ đã vươn lên nhận thức được nhiệm vụ dân tộc là thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm.
Thành công của Nguyễn Huệ về chính trị còn ở việc ông được nhân tài trong nước ủng hộ. Về võ tướng có Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Đặng Tiến Đông, Ngô Văn Sở... Ra Thăng Long, Nguyễn Huệ thu phục được Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Đoàn Nguyễn Tuấn, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp... là những kẻ sĩ đất bắc chí có thực tài, biết thời thế. Ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ được sự cộng tác hết ḷòng của Trần Văn Kỳ, một bậc danh sĩ nổi tiếng ở đất Đàng Trong, người có công lớn giúp Nguyễn Huệ tổ chức bộ máy cai trị và giới thiệu cho Nguyễn Huệ những nhân tài trong nước.
Trong 17 năm hoạt động sôi nổi, liên tục, khởi nghĩa Tây Sơn đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ, lập nên những công lao hiển hách:
- Lật đổ các chính quyền phong kiến phản động Nguyễn- Trịnh - Lê.
- Xoá bỏ sự chia cắt đất nước, bước đầu lập lại nền thống nhất quốc gia.
- Đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh, bảo vệ được nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.

Câu trả lời:

Nghi binh là một chiến thuật lợi hại trong chiến tranh, với thiên tài quân sự Nguyễn Huệ, thuật nghi binh được ông nghiên cứu ứng dụng và đem lại hiệu quả chiến thắng cao. Một đặc điểm tiến hành quân sự của Quang Trung-Nguyễn Huệ là luôn nắm vững mặt yếu, mặt mạnh của đối phương trước khi quyết định cách đánh, nhất là trong chiến tranh chống ngoại xâm như trận Rạch Gầm-Xoài Mút, hoặc trận đại phá 29 vạn quân Thanh ở Thăng Long.

Một trận chiến đấu của quân Tây Sơn.

Với trận Rạch Gầm-Xoài Mút, sau khi Nguyễn Phúc Ánh cầu viện, mùa hạ năm Giáp Thìn (1784) vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân của Phúc Ánh từ Vọng Các vượt biển sang Gia Định. Mặt khác, vua Xiêm còn phái hai tướng Lục Côn và Sa Uyển đem ba vạn quân theo đường bộ qua Chân Lạp đến Gia Định phối hợp cùng với quân của Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Quân Xiêm kéo vào Gia Định một cách rầm rộ. Quân Tây Sơn do tướng Trương Văn Đa chỉ huy vừa đánh chặn, vừa rút để bảo toàn lực lượng và ứng phó với các trận đánh nhỏ của quân Nguyễn Ánh. Nhờ đó, Trương Văn Đa đã chặn được sức tiến của quân giặc và sai Đô Úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình Gia Định. Vua Thái Đức liền sai Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo trừ. Khoảng đầu năm 1785, hai vạn quân Tây Sơn thiện chiến xuống thuyền vào nam và đổ bộ đóng quân ở Mỹ Tho. Nguyễn Huệ sai Trương Văn Đa giữ thành Gia Định và tự mình đi xem xét địa hình, địa thế và cho người do thám tình hình của địch. Sau khi nắm rõ địa hình địa thế, tình hình quân Xiêm, Nguyễn Huệ chọn khúc sông Rạch Gầm và Xoài Mút là điểm quyết chiến.

Trong trận đánh này, ngoài lợi dụng thủy triều, Nguyễn Huệ còn áp dụng nghệ thuật nghi binh khá linh hoạt. Các tướng Xiêm biết quân Tây Sơn ít hơn, thế nào Nguyễn Huệ cũng dùng chiến thuật nghi binh. Tuy vậy, khi trận đánh xảy ra chúng lại hoàn toàn bất ngờ. Quân Tây Sơn không chỉ mai phục sẵn ở hai bên bờ sông, mà trong đêm trăng mờ mờ quân của Võ Văn Dũng vừa đánh vừa lui. Một bộ phận quân Tây Sơn hai bên bờ cùng hợp lực với Dũng chặn giặc. Quân Xiêm nhận định: toàn bộ quân Tây Sơn đã lộ diện. Vì vậy, không còn gì chần chờ nữa, tướng Xiêm đốc thúc ba quân đuổi theo thủy quân Võ Văn Dũng. Thuyền Giặc cứ theo ánh sáng đèn của thủy quân Tây Sơn mà đuổi, chúng không biết rằng trên đường rút lui để dụ địch, thủy quân của Võ Văn Dũng đã dần dần tắt đèn tấp sang hai bên bờ chui vào các ngách sông. Quân Xiêm đuổi tới nơi thì thấy chỉ có mấy chiếc, biết là đã trúng kế Tây Sơn. Khi quân Xiêm lọt vào trận địa bày sẵn, Nguyễn Huệ đốc thúc thủy quân từ các nhánh sông đổ ra đánh. Đồng thời, súng đại bác trên cù lao Thới và hai bên bờ sông nã liên hồi vào thuyền giặc. Tướng Xiêm Chiêu Sương hoảng hốt cho dừng thuyền lại, nhưng bị thủy quân Tây Sơn từ các nhánh sông nhỏ đổ ra vây chặt. Như vậy, phía trước, phía sau, hai bên, ngay cả trên đầu quân Xiêm đều bị đánh. Thuyền trước thuyền sau của quân Xiêm dồn cục, rối loạn hàng ngũ, chiếc bị đánh đắm, chiếc va chạm nhau vỡ nát, quân sĩ lớp nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giáo đâm, gươm chém... thất bại nặng nề. Còn đạo quân bộ cũng bị quân Tây Sơn phục đánh tan, tướng Xiêm là Lục Côn bị Bùi Thị Xuân chém rơi đầu. Trong trận đánh này, với lực lượng khoảng ba vạn quân thủy bộ, Nguyễn Huệ đã tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và 300 thuyền chiến. Tướng Xiêm Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng Sạ Uyển kéo tàn quân chạy về Xiêm, còn Nguyễn Phúc Ánh chạy trốn ra Hà Tiên.

Bí mật, nghi binh, dụ địch vào chỗ hiểm yếu để tiêu diệt là chiến thuật quan trọng của Nguyễn Huệ. Trong trận Đống Đa đại phá 29 vạn quân nhà Thanh là một ví dụ. Ngày 20 tháng chạp, khi đại binh Tây Sơn do Quang Trung-Nguyễn Huệ chỉ huy hành quân đến núi Tam Điệp, các tướng Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân đến chịu tội (vì đã lui binh cho quân Thanh tràn đến Thăng Long). Tưởng đắc tội, không ngờ nhà vua cười: "Lui quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích tướng sĩ, ngoài làm cho giặc phấn khích, kiêu ngạo, dụ địch vào chỗ hiểm yếu của ta như thế là phải. Các khanh không có tội chi cả. Chúng nó sang đây là mua lấy cái chết đó thôi, ta đã định mẹo cả rồi". Không những thế, để trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch, nhà vua còn sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ tám người mang lễ vật và thư đến tha thiết xin Tôn Sĩ Nghị dừng quân để tra xét rõ: vì sao Tây Sơn phải thay quyền nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn 40 người Trung Hoa do tướng cướp Đắc Thiện Tống bắt và sau đó quân Tây Sơn bắt được Tống. Quả thật, Tôn Sĩ Nghị kiêu căng sai chém đầu Trần Danh Bình, luôn cả Đắc Thiện Tống và cầm tù đoàn sứ giả. Trong lúc đó, vua Quang Trung bí mật chỉnh đốn quân tướng, chuẩn bị chiến trận, quyết một trận đuổi giặc Thanh ra khỏi bờ cõi. Vào sáng 30 tháng chạp, trước khi truyền lệnh ba quân xuất quân, nhà vua nói: "Ta đến mà địch không biết là địch ngủ ta thức, ta đánh mà địch không đề phòng là ta chém kẻ tay không. Ta nhất định thắng...". Chính yếu tố bí mật, địch quân không nắm được lực lượng của ta lại thêm thói khinh thường, đến khi ta bất ngờ tấn công thì không còn kịp chống đỡ, đã làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử của vua Quang Trung.

Bằng chiến thuật nghi binh, trong lần kéo quân ra bắc đầu tiên với danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh, thủy quân Tây Sơn bị quân của chúa Trịnh Khải vây phục trên sông Vị Hoàng. Gặp gió đông thổi mạnh, Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ để trên mấy chiếc thuyền, rồi cho đánh trống, kéo cờ, thả thuyền cho trôi đi. Tướng của Trịnh Khải là Đinh Tích Nhưỡng, tưởng quân Tây Sơn tới đánh bèn dàn thuyền chiến, rồi truyền quân sĩ lấy súng bắn cho đến khi hết đạn mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc này, quân Nguyễn Huệ ùa tới đánh, quân Nhưỡng không chống cự nổi phải bỏ thuyền mà trốn. Các cánh quân khác của chúa Trịnh cũng bị đánh tan, thành Sơn Nam bị hạ.

Cái tài của Quang Trung-Nguyễn Huệ là luôn tìm hiểu kỹ đặc điểm của tướng giặc, tình hình quân lính địch để có chiến thuật dẫn dụ, nghi binh phù hợp đưa đối phương vào thế bị động, bất ngờ bị tấn công, không chống đỡ kịp với quân Tây Sơn vốn gan dạ và dũng mãnh.

Câu trả lời:

Quang Trung Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh đổ cả hai tập đoàn thống trị phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, người đã lập nên những chiến công hiển hách chống quân xâm lược Xiêm và Mãn Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc vào cuối thế kỷ thứ 18.
Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong hoạt động quân sự, ông chủ động tập trung lực lượng đánh vào những mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất và hành động liên tục, bất ngờ, chớp nhoáng, quyết liệt làm cho đối phương không kịp đối phó.
Nguyễn Huệ còn là nhà chính trị sáng suốt. Từ mục tiêu trước mắt của phong trào nông dân là đánh đổ chế độ áp bức Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Huệ đã vươn lên nhận thức được nhiệm vụ dân tộc là thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm.
Thành công của Nguyễn Huệ về chính trị còn ở việc ông được nhân tài trong nước ủng hộ. Về võ tướng có Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Đặng Tiến Đông, Ngô Văn Sở... Ra Thăng Long, Nguyễn Huệ thu phục được Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Đoàn Nguyễn Tuấn, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp... là những kẻ sĩ đất bắc chí có thực tài, biết thời thế. Ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ được sự cộng tác hết ḷòng của Trần Văn Kỳ, một bậc danh sĩ nổi tiếng ở đất Đàng Trong, người có công lớn giúp Nguyễn Huệ tổ chức bộ máy cai trị và giới thiệu cho Nguyễn Huệ những nhân tài trong nước.
Trong 17 năm hoạt động sôi nổi, liên tục, khởi nghĩa Tây Sơn đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ, lập nên những công lao hiển hách:
- Lật đổ các chính quyền phong kiến phản động Nguyễn- Trịnh - Lê.
- Xoá bỏ sự chia cắt đất nước, bước đầu lập lại nền thống nhất quốc gia.
- Đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh, bảo vệ được nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.
__Chúc bạn học tốt__

Câu trả lời:

1 + 2.

STT Cân nặng (kg) Chiều cao (m) Chỉ số BMI Thể trạng
1 58 1,60 22,6 Bình thường
2 60 1,50 26,6 Thừa cân
3 40 1,45 19 Bình thường
4 55 1,57 22,3 Bình thường
5 47 1,45 22,3 Bình thường
6 50 1,56 20,5 Bình thường
7 45 1,58 18 Gầy
8 65 1,54 27,4 Thừa cân
9 34 1,45 16,1 Gầy
10 39 1,47 18 Gầy

3.

- Nhận xét: (từ bài 1 và bài 2 suy ra nhận xét về thể trạng của các thiếu niên trong bảng trên)

4.

- Các yếu tố ảnh hưởng của môi trường:

Nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển về thể chất. Con người khi sinh ra có sự phát triển giống với bố mẹ về các đặc điểm thể chất, ngoại hình( thông thường, nếu cha mẹ cao thì con cái sinh ra cũng khá cao, nếu cha mẹ mập thì con cái sinh ra cũng mập) và cũng giống bố mẹ cả những yếu tố bên trong như kiểu gen, nhóm máu…hoặc di truyền liên quan đến nhiễm sắc thể giới tính. Ở nam giới, có những chứng bệnh nan y và cũng có những chứng bệnh mãn tính khiến họ phải gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển về thể chất và tinh thần của bản thân người mắc bệnh hay đến thế hệ con cái sau này. Như bệnh Down làm cho chiều cao khiêm tốn, thấp bé và gương mặt khá rộng. Ngược với Down là bệnh Klinefelter làm người bệnh có vóc dáng cao, gầy, tay chân dài, ngực rộng, khả năng sinh sản của họ bị hạn chế do tinh hoàn nhỏ. Bệnh mù màu thì gây ra những phiền toái không nhỏ cho phái nam bởi sự không phân biệt được màu sắc nhất định. Ngoài ra còn có những bệnh khác như:Màng giữa ngón, Tai rậm lông, Bệnh máu khó đông (hemophilia): bệnh có thể được phát triển do kết quả không đủ chất globulin chống chảy máu. Bệnh máu khó đông đã được mô tả trong phả hệ các gia đình hoàng tộc châu Âu là một trường hợp điển hình, bắt đầu từ nữ hoàng Victoria, sau này gặp ở các hoàng tử Tây Ban Nha, Đức, Nga. Bệnh không có gamma-globulin làm giảm sút rõ rệt sức đề kháng đối với các bệnh truyền nhiễm khác nhau. Bệnh đái tháo nhạt: người bệnh bị giảm chức năng của tuyến yên, dẫn đến cơ thể bị mất nước rõ rệt. Trẻ em mắc bệnh này sinh trưởng chậm, rối loạn tâm thần, suy nhược cơ thể đôi khi chết.. Bệnh hói đầu: Nam giới thường bị rụng tóc ở phía trước và trung tâm của da đầu là do bệnh di truyển liên quan đến các gen. Nó khác với những người bị rụng tóc hay thưa tóc vì yếu tố môi trường bên ngoài. Tuy nhiên, y học tiên tiến ngày nay đã có thể chữa chứng hói đầu nhờ cấy ghép tóc. Ở nữ giới, Một số bệnh di truyền ở người như bệnh máu không đông hay mù màu đỏ đều là các tính trạng do các gen liên kết với NST giới tính. Sự di truyền chéo thể hiện rõ: ông ngoại bị bệnh truyền gen mầm bệnh cho mẹ, mẹ truyền bệnh cho con trai. Cho đến nay có ít nhất 50 bệnh và 200 dấu hiệu di truyền gắn với NST X của người đã được biết. Các NST X và Y có những phần tương đồng chung. Trong những phần này chứa các gen xác định những tính trạng di truyền theo cách như nhau ở cả nam và nữ, như: Bệnh da khô sắc tố: Bệnh nhân siêu nhạy cảm với tia cực tím, dưới ảnh hưởng của các tia này trên phần hở của cơ thể xuất hiện những vết sắc tố thoạt đầu ở dạng tàn nhang, về sau ở các dạng u nhú lớn hơn (nốt ruồi) và cuối cùng là các u. Đối với 2/3 số người mắc bệnh thì bệnh da khô sắc tố kết thúc nguy hiểm vào lúc bước vào thời kỳ chín sinh dục. Hội chứng Oguti: một bệnh hay gặp ở Nhật, biểu hiện ở viêm màng lưới sắc tố mắt và phát triển dị hình ở võng mạc. Bệnh còi xương do giảm phosphat máu là bệnh mà thận bị suy giảm khả năng tái hấp thu phosphat, dẫn đến việc cốt hóa bất thường làm xương bị cong và bị biến dạng. Đây là bệnh di truyền gen trội liên kết NST X nên người nữ có khả năng mắc bệnh cao hơn người nam.Hội chứng NST X dễ gãy: là hội chứng di truyền kiểu trội liên kết NST X, thể hiện sự chậm trí của người bệnh. Hội chứng được gặp với tỷ lệ 1/4.000 ở nam và 1/8.000 ở nữ. Ở người nữ, mức độ chậm trí có xu hướng nhẹ hơn và thay đổi mức độ biểu hiện nhiều hơn ở người nam. Ngoài ra Y học đã chứng minh tác hại của những cặp hôn nhân cận huyết thống đó là những cặp vợ chồng khỏe mạnh lại có thể sinh con dị dạng hoặc mang bệnh tật di truyền như: Mù màu, bạch tạng, da vảy cá, sức khỏe yếu, bệnh tật nhiều... làm suy thoái chất lượng giống nòi cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần của các tộc người tại vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên nói riêng, Việt Nam nói chung. Trong cuộc nghiên cứu của ngành y tế mới đây thì trong 558 trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng này có 51 trẻ phát triển không bình thường. Các cháu bị bạch tạng, thiểu năng trí tuệ, liệt, câm, lông mi trắng, thọt, đần độn, 8 trẻ đã chết. Sự mặc cảm về một cơ thể không khỏe mạnh , không phát triển bình thường bởi bệnh tật bẩm sinh hiện cũng đang tồn tại ở một bộ phận không nhỏ trong xã hội . Càng ngày càng có nhiều bệnh khuyết tật như chứng vẹo chân, trật khớp hông, lỗ tiểu thấp, bệnh tim bẩm sinh, sứt mũi và hở hàm ếch, hẹp môn vị… Một vấn đề nữa ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể đang được quan tâm hiện nay là Dinh dưỡng. Bởi dinh dưỡng đầy dủ là yếu tố căn bản cho một sức khỏe tôt.Mở đầu cho sự phát triển của thế hệ nối tiếp thế hệ đó là dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai. Các nhà nghiên cứu dinh dưỡng cho thấy, phát triển cơ thể, kể cả từ lúc phát triển của bào thai có liên quan rất chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng và sức khoẻ của người mẹ sau này, đặc biệt trong 3 tháng đầu của thai kỳ và giai đoạn trước khi bà mẹ có thai. Điều này, một vấn đề đó là “Dinh dưỡng sớm”. Dinh dưỡng thiếu hụt bắt đầu từ trong bào thai, đã ảnh hưởng tới suốt cuộc đời, đặc biệt là các em gái và phụ nữ, tác động không chỉ cuộc đời một con người, là bản thân người phụ nữ đó mà cho cả thế hệ mai sau. Năm 1986, GS.Barker (người Anh) đã thu thập trên 16.000 hồ sơ bệnh tật và các rối loạn chuyển hoá ở người trưởng thành đối chiếu với hồ sơ của chính họ khi mới sinh, đã nhận thấy những trẻ có cân nặng sơ sinh thấp và khi 1 tuổi bị nhẹ cân thì có nguy cơ bị mắc các bệnh tim mạch, huyết áp sau này cao hơn. Đặc biệt khi bào thai bị tổn thương hoặc thiếu hụt dinh dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng (vitamin và các chất khoáng) vào các thời điểm quyết định của sự tăng trưởng sẽ để lại hậu quả lâu dài, ảnh hưởng đến cấu trúc, chức phận của cơ thể. Trong điều kiện thiếu hụt dinh dưỡng, sự phát triển và chuyển hoá của bào thai có thể thích nghi với môi trường bên trong tử cung lúc bấy giờ nhưng về lâu dài sẽ có nguy cơ cao của các bệnh mạn tính ở người trưởng thành và khi về già. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO ) ở những người mẹ có cân nặng dưới 40 kg tỷ lệ sơ sinh có cân nặng dưới 2,5 kg cao gấp 2,5 lần so với nhóm bình thường. Những bà mẹ có chế độ dinh dưỡng hợp lý, được bổ sung các chất dinh dưỡng một cách đầy đủ sẽ sinh ra những đứa trẻ khoẻ mạnh. Thiếu dinh dưỡng trong giai đoạn mang thai sẽ làm trẻ chậm lớn, và làm tuổi dậy thì muộn hơn so với những trẻ đủ dinh dưỡng. Trong thời kỳ bào thai 3 tháng đầu và 3 tháng giữa, giai đoạn này vi chất dinh dưỡng là rất quan trọng với sự phát triển của thai nhi. Khi thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng làm tăng rủi ro đối với phát triển chiều cao, hạn chế tiềm năng phát triển vóc dáng. Thiếu sắt gây nên thiếu máu dinh dưỡng sẽ làm thai chậm phát triển, dễ sinh non, sinh con nhẹ cân, mẹ có nguy cơ cao khi sinh nở. Thiếu iốt ảnh hưởng đến phát triển trí não, dẫn đến đần độn, có thể gây nên thai chết lưu. Thời kỳ 3 tháng cuối, thời kỳ này thai nhi phát triển nhanh, nếu như 6 tháng đầu thai nhi chỉ năng 1kg thì trong 3 tháng cuối tăng 2kg , để khi sinh ra trẻ có cân nặng sơ sinh trung bình 3kg, vì thế trong chế độ dinh dưỡng, ngoài các chất dinh dưỡng cung cấp chất đạm, béo, vi chất, thì đáp ứng nhu cầu năng lượng là rất quan trọng, trong khẩu phần cần thêm 350Kcal trong 1 ngày, người mẹ cần chú ý ăn tăng thêm. Ăn uống đầy đủ mẹ sẽ tăng khoảng 10 đến 12 kg trong thời gian có thai. Tình trạng thiếu năng lượng, công việc nặng nhọc, căng thẳng của mẹ có thể làm tăng nguy cơ trẻ đẻ nhẹ cân (dưới 2,5kg). Giai đoạn sau sinh cũng rất quan trọng với sự phát triển thể lực và sức khoẻ của trẻ. Vì giai đoạn này trẻ phát triển nhanh nhất, chính sự phát triển nhanh đó thường là thời kỳ rủi ro nhất, đây là “ thời kỳ mấu chốt”, vì vậy trong giai đoạn này trẻ cần được nuôi dữỡng hợp lý và sự chăm sóc đặc biệt để giúp trẻ phát triển hết tiềm năng đã được định hình từ giai đoạn bào thai trong bụng mẹ. Người ta thấy rằng, hậu quả của suy dinh dưỡng bào thai có thể thấy rõ ở các quần dân cư đang trong thời kỳ chyển tiếp về dinh dưỡng và lối sống, đó là sự gia tăng các bệnh mạn tính liên quan đến dinh dưỡng như thừa cân béo phì, tiểu đường , tim mạch… Tiếp đến,lứa tuổi dậy thì là lứa tuổi phát triển nhanh về thể lực và có sự thay đổi của hệ thần kinh- nội tiết mà nổi bật là sự hoạt động của các tuyến sinh dục, gây ra những biến đổi về hình thái và sự tăng trưởng của cơ thể. Cân nặng của em gái tăng trung bình 3- 4kg/năm, chiều cao tăng 4 -7cm., ở em trai còn tăng hơn, trung bình cân nặng tăng 5-6kg, chiều cao tăng 7- 9 cm. Ở lứa tuổi này song song với sự phát triển thể lực nhanh, còn là giai đoạn các em hoạt động nhiều. Vì vậy nuôi dưỡng cần được quan tâm đặc biệt, để giúp các em có một thân hình đẹp, cân đối, sức khoẻ, dẻo dai, trước hết khẩu phần ăn cần đảm bảo đủ năng lượng, cơ thể hoạt động càng nhiều đòi hỏi năng lượng càng cao. Ở tuổi này nhu cầu năng lượng hàng ngày là 2200 kcal – 2500 kcal, cần cho trẻ ăn đủ no, ăn đủ 3 bữa sáng, trưa, tối. Đặc biệt bữa sáng nên coi là bữa ăn chính để giúp trẻ có đủ năng lượng cho học tập và hoạt động. Ngoài ra dinh dưỡng trong lứa tuổi trung niên và cao tuổi cũng rất quan trọng.Khi bước vào tuổi già, những thay đổi về cấu tạo cơ thể và chức năng sinh lý làm ảnh hưởng đến nhu cầu dinh dưỡng. Tuổi càng cao khối cơ bắp càng giảm, ảnh hưởng đến sự linh hoạt làm cho người già thường mất thăng bằng và dễ ngã. Khối lượng cơ còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa, nhất là chuyển hóa glucose, do đó việc duy trì khối lượng cơ rất quan trọng trong bảo vệ sức khỏe người cao tuổi. Tiêu hóa ở người già kém, thường do giảm tiết dịch dạ dày, ảnh hưởng đến hấp thu vitamin B12, acid folic, calci, sắt và kẽm. Người già thường ăn ít kéo theo sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng so với nhu cầu và khó điều chỉnh lại cân bằng sau khi mắc bệnh. Thiếu vitamin và khoáng chất có thể làm giảm khả năng nhận thức. Chức năng khứu giác và vị giác giảm có thể gây rối loạn hành vi ăn uống. Thị giác suy giảm thường gặp là do đục nhân mắt, các thức ăn chứa chất chống oxy hóa(vitamin A, C, E) bảo vệ, ngăn chận quá trình đục nhân mắt này. Tổng hợp Vitamin D ở da giảm trong khi lượng Vitamin D ăn vào không đủ góp phần dẫn đến loãng xương và tăng nguy cơ gãy xương. Chức năng miễn dịch giảm dần, hơn nữa suy dinh dưỡng protein, thiếu kẽm, thiếu vitamin B6 và chế độ ăn thiếu chất chống oxy hóa thường gặp ở người già càng gây bất lợi đến chức năng miễn dịch, do đó dễ bị nhiễm khuẩn. Người cao tuổi có thể có rối loạn chuyển hóa mỡ. Một chế độ ăn có hàm lượng cholesterol cao sẽ làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Tuy nhiên với chế độ ăn và lối sống hợp lý vẫn có thể duy trì cuộc sống khỏe mạnh. Ở động vật bậc cao và người,các tuyến nội tiết trong cơ thể tiết ra các hoocmon có thành phần cấu trúc hóa học và tác dụng sinh lý rất khác,có nhau ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của cơ thể. Nội tiết thăng bằng trong cơ thể có thăng bằng hay không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của bạn. Các hoocmon của tuyến yên như: -Hoocmon kích thích sinh trưởng (GH : Ghimberilin Hoocmone), hay STH (Somato Trophic Hormone). Thiếu hoocmon này chiều cao không phát triển, xuất hiện hội chứng lùn hoặc hội chứng nhi tính do tuyến yên. Nếu dư thừa, sẽ xuất hiện hội chứng khổng lồ. Nếu dư thừa STH khi cơ thể đã trưởng thành sẽ xuất hiện hội chứng to đầu ngón tay. -Hoocmôn kích nang tố (FSH : Follicle Stamulating Hormone, hay ProlanA). Khi thiếu FSH phụ nữ bị rối loạn kinh nguyệt. - Hoocmôn kích nhũ tố (LTH : Luteo Trofic Hormone, hay Prolactin:LTH phối hợp với estrogen co thể làm xuất hiện sữa ngay cả ở cơ thể đực. Các hoocmon của tuyến giáp - Hoocmon Canxitonin, có tác dụng kích thích quá trình canxi hóa tổ chức xương. Nếu tuyến giáp kém hoạt động (thiểu năng tuyến giáp), gây thiếu iốt, buộc các nang tuyến giáp hoạt động mạnh để bù đắp sự thiếu hụt hoocmon, làm phì đại tuyến giáp (bướu cổ). Nếu tuyến giáp hoạt động quá mạnh (ưu năng tuyến giáp) làm tăng cường độ trao đổi chất, sinh nhiệt nhiều, tim đập nhanh, huyết áp tăng, tăng nhịp thở, trao đổi chất tăng, tiêu hao năng lượng lớn, người gầy nhanh (bệnh Bazơđô). Khi chức năng tuyến giáp mất hoàn toàn sẽ bị bệnh phù niêm gồm những triệu chứng như: chuyển hóa cơ bản giảm, thân nhiệt giảm, giảm nhịp tim, da khô xù xì, niêm mạc da phù nề, chậm phát triển thể lực và trí lực, còn gọi là bệnh creatin.. Các hoocmon tuyến sinh dục: -Tuyến sinh dục đực:Các tế bào kẽ nằm xen giữa các tế bào sinh tinh, có khả năng tiết ra hormon sinh dục là antrogen, trong đó quan trọng là testosteron, có tác dụng kích thích sự phát triển các đặc tính sinh dục phụ ở nam. -Tuyến sinh dục cái: Buồng trứng tiết ra hoocmon sinh dục cái, gồm 2 nhóm chính là estrogen và progestero.Hoocmon nhóm estrogen do các tế bào noãn tiết ra, có tác dụng làm nang trứng phát triển và gây ra những biến đổi ở người phụ nữ lúc dậy thì, tạo đặc điểm sinh dục thứ phát, ức chế hoạt động hướng sinh dục của tuyến yên, ảnh hưởng tới chuyển hóa Ca và P, tác dụng hướng mỡ, ngăn cản gan nhiễm mỡ, làm tử cung của phụ nữ mang thai nhạy cảm với oxytoxin. Ngày nay, xã hội không ngừng phát triển, con người cũng không ngừng điều chỉnh để thích nghi với môi trường xung quanh. Hằng ngày chúng ta vẫn phải lao động và học tập trong một bầu không khí ngột ngạt ,dân cư đông đúc, phương tiện giao thông qua lại như mắc cửi, khí thải trong bệnh viện, trong các khu công nghiệp ngày một nhiều và mức độ ô nhiễm tăng cao…..Chính vì vậy, yếu Tố Xã Hội gây ảnh hưởng nhiều theo chiều hướng tiêu cực đến sức Khỏe và thể chất của con người Theo định nghĩa của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, “Sức Khỏe là tình trạng hoàn hảo về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh tật.” Một cơ thể không bệnh tật nhưng sống trong một môi trường xã hội bất ổn định chắc là không thể nào bình an, khỏe mạnh đựơc. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng tới sức khỏe không phải là khám phá mới lạ mà đã đựơc biết tới từ thuở xa xưa. Ðầu thế kỷ thứ 19, các nhà dịch tễ học đã biết được rằng rất nhiều khó khăn cho sức khỏe đều do những khiếm khuyết xã hội mà ra. Khi các khiếm khuyết này được điều chỉnh thì sức khỏe tốt hơn. Một bằng chứng là, trước khi khám phá ra thuốc trị bệnh lao, tử vong vì lao phổi giảm rất nhiều nhờ các cải thiện về điều kiện sinh sống, dinh dưỡng. Mới đây, kết quả nhiều quan sát, nghiên cứu đã xác nhận các ảnh hưởng này là có thật và rất quan trọng. Đó là tất cả các hoàn cảnh không thuận lợi trong đó con người sinh sống và làm việc. Kể ra thì rất nhiều mà các yếu tố chính là: sự bất ổn về kinh tế, xã hội, chiến tranh; các điều kiện không thuận lợi cho sự phát triển của trẻ em; sự không an toàn việc làm cho công nhân; môi trường sinh sống ô nhiễm; không đồng đều trong việc tiếp nhận chăm sóc y tế; kém phương thức phòng ngừa bệnh truyền nhiễm; quá nhiều tệ đoan xã hội đưa tới sinh hoạt tình dục bừa bãi, lạm dụng hóa chất có hại, cờ bạc; thực phẩm xấu, dinh dưỡng không đúng cách; kỳ thị chủng tộc, giới tính, tuổi tác... Càng nghèo khó, thấp vế trong nấc thang xã hội thì bệnh hoạn càng tăng, càng lâu bình phục và tỷ lệ tử vong cũng cao. Kém kinh tế đã được nêu ra là nguyên nhân của căng thẳng tâm thần, bệnh tim, loét bao tử, tiểu đường loại 2, viêm xương khớp, vài loại ung thư và sớm lão hóa. Kém kinh tế còn khiến người bệnh không được hưởng chăm sóc y tế như những người giầu có. Nhà ổ chuột kém vệ sinh, lương thực không đầy đủ, ít giáo dục thuở nhỏ, gò bó chịu đựng trong những việc làm vừa không an toàn vừa bất trắc, thiếu khả năng nuôi dậy con cái...Tất cả đưa tới căng thẳng tâm thần, xáo trộn gia đình, bệnh hoạn từ khi còn trẻ tới tuổi già. Các hoàn cảnh tâm lý xã hội xấu có thể tạo ra các căng thẳng triền miên cho con người. Họ sẽ trở nên luôn luôn lo sợ , không đối phó được. Chẳng hạn một việc làm không bảo đảm, một đời sống bấp bệnh, một lo sợ chiến tranh bất ổn xã hội, những thiếu thốn kém dinh dưỡng..Mà triền miên stress là rủi ro đưa tới bệnh tim mạch, tai biến não, suy giảm sức đề kháng của cơ thể, tăng trầm cảm, nhiễm trùng, cao huyết áp, bệnh tiểu đường, mệnh yểu...Tương quan hỗ trợ xã hội: Con người không những không thể sống lẻ loi trong cộng đồng mà còn cần sự hỗ trợ của cộng đồng này. Sự cô lập với xã hội đưa tới trầm cảm, buồn phiền, bệnh hoạn kinh niên, sớm tử vong. Một yếu tố góp phần ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể nữa đó là Bệnh tật. Ở trẻ em, Trẻ mắc bệnh thường ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá thức ăn, hô hấp, tuần hoàn ở trẻ, đồng thời trẻ mắc bệnh thường phải tiêu hao năng lượng nên làm chậm sự phát triển thể chất của trẻ. Ví dụ như các bệnh răng miệng, tiêu chảy, suy dinh dưỡng….. Ở người cao tuổi, mọi cơ quan bị biến đổi. Hệ cơ xương khớp: tính đàn hồi sợi cơ giảm, xương xốp, khớp thoái hóa. Hệ tim mạch: mạch xơ cứng , co bóp cơ tim giảm, không cung cấp máu đủ cho gắng sức. Hệ miễn dịch giảm, thích ứng với môi trường kém. Từ đó gây nên những nguy cơ bệnh lý, ảnh hưởng tới sức khỏe, thể chất. Trong gia đình, con cái thường học theo tấm gương của cha mẹ, ảnh hưởng của cha mẹ đối với trẻ là rất lớn, muốn giáo dục trẻ thì cha mẹ phải luôn là tấm gương sáng về phẩm chất và hành vi với trẻ, những hành vi sai trái, những hành động bạo lực hay những lời mắng chửi thậm tệ đều có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục và phát triển nhân cách, thể chất trẻ, trẻ có thể học theo những hành vi đó của cha mẹ hoặc cha mẹ đã làm mất uy tín của mình với trẻ khi trẻ chứng kiến hành vi bạo lực của cha mẹ. Như vậy cha mẹ sẽ không giáo dục được cho con những phẩm chất tốt khi trẻ phải chứng kiến cảnh bạo lực từ chính cha mẹ. Bạo lực gia đình có thể gây ra cho trẻ những nạn nhân trực tiếp hoặc phải chứng kiến cảnh người mẹ là nạn nhân của bạo lực gia đình – những rối loạn tâm lý và sự sa sút trong học tập.Trong trường hợp không bỏ học, việc học hành sa sút và những rối loạn nhân cách của các học sinh là nạn nhân (trầm cảm, và trong một số trường hợp là quấy phá hay có hành vi bạo lực với giáo viên và các học sinh khác...) gây cho nhà trường những rắc rối không nhỏ. Những hình ảnh bạo lực gia đình trở thành một vết thương khó phai mờ trong trí não trẻ. Khi trưởng thành, chúng khó hoà nhập với cuộc sống, dễ bị cẳng thẳng thần kinh, dễ bị kích động bạo lực hoặc có tư tưởng trầm uất. Những bé trai dần dần sẽ hình thành nhận thức rằng làm đàn ông có quyền đánh đập phụ nữ và rồi khi trở thành chồng cũng có cách ứng xử như vậy đối với vợ. Với các bé gái, chứng kiến cảnh mẹ bị cha mắng chửi, đánh đập thì có thể sau này sẽ cam chịu cảnh bạo lực hoặc ác cảm với đàn ông. Cuối cùng, sự luyện tập, vận động cơ thể cũng rất quan trọng cho việc duy trì thể trạng cơ thể và góp phần tích cực vào duy trì trọng lượng vừa vặn, xây dựng duy trì mật độ xương, sức mạnh các cơ, khớp, tính cơ động, đẩy mạnh sự khỏe mạnh sinh lý, giảm nguy hiểm phẫu thuật, và làm tăng sức mạnh hệ miễn dich. Các bài tập còn giảm mức cortisol. Cortisol là một hóc môn gây căng thẳng tạo ra mỡ ở vùng bụng, làm khó giảm cân. Cortisol là nguyên nhân của rất nhiều vấn đề sức khỏe, cả thể chất và tinh thần. Những bài tập ưa khí công (aerobic) thường được đưa ra để giúp ngăn ngừa hoặc điều trị những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như cao huyết áp, béo phì, bệnh tim, tiểu đường típ 2, mất ngủ và suy nhược. Theo tổ chức y tế thế giới WHO việc thiếu luyện tập dẫn đến khoảng 17% của các bệnh về tim và tiểu đường, 12% sự suy sụp khi về già, và 10% ung thư vú, ruột kết.

Câu trả lời:

Khí thải, nhất là CO2, có thể làm thủng tầng ôzôn của khí quyển, làm nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên. Cuối thời kỳ băng hà, nồng độ khí thải CO2 trong không khí chỉ có 180 ppm nhưng qua nửa thế kỷ, con số này đã lên đến 380 ppm. Căn cứ vào số liệu của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) thì năm 2005 là năm nóng nhất trong lịch sử 100 năm trở lại đây.

Châu Bắc cực và châu Nam cực là hai khu vực nhạy cảm nhất đối với hiện tượng trái đất nóng lên, những núi băng, tảng băng không ngừng tan chảy. Theo số liệu khí tượng trong vòng 30 năm gần đây của Trạm khảo sát Nam cực Anh thì tốc độ nóng lên của Nam cực cao gấp 4 lần trái đất. Từ năm 2002 cho đến nay, băng tan ở Nam cực khiến cho mực nước biển tăng mỗi năm khoảng 0,4 mm. Tình hình ở Bắc cực còn tồi tệ hơn. Tốc độ băng tan của đảo Greenland trong 5 năm gần đây tăng gấp 2 lần. Theo ước tính, nếu cả băng đảo Greenland tan chảy thì nước biển sẽ dâng cao lên 7m. Khi ấy, cả đất nước Bănglađet sẽ chìm ngập dưới biển.

Băng tan ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ giữa mặt trời với trái đất. Băng ở hai vùng Nam cực và Bắc cực đủ để phản xạ lại 90% năng lượng bức xạ mặt trời. Đại dương thì có tác dụng ngược lại, hấp thu 90% năng lượng bức xạ mặt trời. Nếu như băng ở hai cực này không còn tồn tại thì không biết nhiệt độ của trái đất sẽ tăng nhanh như thế nào.

Hiện tượng “tuần hoàn ngược” trên trái đất xảy ra ở những vùng băng đảo. Tại khu vực vĩ độ cao như Alaska và Siberia có rất nhiều băng đảo trong khi băng đảo lại chứa nhiều khoáng chất. Nếu như băng ở những băng đảo tan chảy sẽ phóng thích ra Hyđrô cacbua và CO2 - khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu khí tượng Mỹ, tất cả băng đảo trên trái đất chứa khoảng 200-800 tỷ tấn CO2 (hiện nay, lượng CO2 toàn cầu đã phóng thải chưa quá 0,7 tỷ tấn).

Trái đất nóng lên còn đem đến một hậu quả khủng khiếp: Đại dương càng ngày càng nóng, nhưng nhiệt độ lục địa càng ngày càng thấp đi. Các chuyên gia cho rằng, trong mùa đông năm 2005 cả châu âu bị những đợt lạnh tấn công, rất nhiều nơi nhiệt độ hạ thấp dưới -20 độ F, gây tử vong hàng trăm người là một biểu hiện của hiện tượng này.

Vậy trái đất nóng lên tại sao lại khiến nhiệt độ của lục địa thấp xuống? Chính do trái đất nóng lên làm tăng nhiệt độ nước biển, băng hà tan chảy khiến lượng nước ngọt đổ vào biển. Hơn nữa, nhiệt độ mặt nước biển tăng cao, độ mặn lại bị giảm, có thể sẽ làm cho hải lưu ở Bắc Đại Tây Dương chảy chậm, thậm chí hoàn toàn bị ngừng chảy. Như vậy, nước ở miền nhiệt đới của xích đạo không thể đổ về khu vực Bắc Đại Tây Dương và làm cho nhiệt độ ở Đông Bắc Mỹ và Tây âu lạnh đi.

Ngoài ra, trong bối cảnh trái đất nóng lên, khô hạn cũng là hiện tượng không tránh khỏi, chỉ có điều nó xảy ra ở những nơi khác nhau. Khu vực khô hạn trên những dãy núi như miền Tây nước Mỹ, tuyết phủ trên núi cao là nguồn nước chủ yếu. Nhưng do mấy năm gần đây khí hậu nóng lên, tuyết phủ ở những vùng núi cao thường bị tan chảy sớm, đến mùa khô hạn cần nước thì tuyết đã tan hết. Những khu vực bị khô hạn lại rất rộng, nhiệt độ cao làm cho nước dưới lòng đất nóng lên làm nước bay hơi nhanh, lại càng khô hạn, đồng thời hiện tượng El Nino ở Thái Bình Dương xảy ra liên tiếp khiến cho Đông á và châu Phi ngày càng trở nên khô hạn. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu khí tượng Mỹ, hiện tượng khô hạn hiện nay xảy ra nhiều gấp 2 lần so với thập kỷ 70 của thế kỷ trước.

__Chúc bạn học tốt__