Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Hải Phòng , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 28
Số lượng câu trả lời 1280
Điểm GP 188
Điểm SP 1289

Người theo dõi (378)

Đang theo dõi (597)


Câu trả lời:

Điểm giống và khác nhau giữa hai phong trào nông dân Yên Thế và Phong trào Cần Vương
Giống nhau:
Đều là phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta.
Đều có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
Đều thất bại
Khác nhau:
Lãnh đạo:
Phong trào Cần Vương: Văn thân sĩ phu yêu nước dưới ngọn cờ Cần Vương
Phong trào nông dân Yên Thế: Nông dân đứng đầu là Đề Thám
Mục tiêu:
Phong trào Cần Vương: Chống Pháp giành lại độc lập dân tộc.
PTND Yên Thế: Mong muốn xây dựng cuộc sống bình quân bình đẳng và sơ khai về kinh tế và xã hội.
Địa bàn hoạt động:
Phong trào Cần Vương: Địa bàn hoạt động rộng khắp Bắc Kì và Trung Kì
Phong trào nông dân Yên Thế: Vùng núi rừng Yên Thế của Bắc Giang.
Tính chất:
PT Cần Vương: Là phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp theo khuynh hướng phong kiến
Phong trào Yên THế: Là phong trào nông dân mang tính tự phát.
Phong trào Cần Vương phát triển qua hai giai đoạn và kết thúc sớm hơn PTND Yên Thế
Phong trào nông dân Yên Thế phát triển qua 3 giai đoạn và kết thúc trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra.
Nguyên nhân thất bại :
- ko liên kết phong trào cả nước
- Lãnh đạo bảo thủ, phong kiến
- Lực lượng ít
- Địa bàn hoạt động hẹp


>>>>Khởi nghĩa Yên Thế có những đặc điểm gì khác so với các cuộc khởi nghĩa cùng thời?


- Đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất, có thời gian kéo dài nhất (gần 30 năm), quyết liệt nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến những năm đầu thế kỷ XX. Khởi nghĩa Yên Thế không chịu sự chi phối của tư tưởng "Cần vương" mà là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân để tự vệ, bảo vệ quyền lợi thiết thân, giữ đất giữ làng. Nghĩa quân đã chiến đấu quyết liệt, buộc kẻ thù hai lần phải giảng hòa và nhượng bộ một số điều kiện có lợi cho ta. Đặc biệt trong thời kì đình chiến lần thứ hai, nghĩa quân Yên Thế còn liên lạc với các nghĩa sĩ yêu nước theo xu hướng mới như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...

Câu trả lời:

Đất đai vẫn còn bị lãng phí một khi luật còn quản lý đất dưới dạng tài nguyên Trong Hiến pháp và Bộ luật dân sự, đất đai được xếp vào phần "tài sản" nhưng lại bị đánh đồng với tài nguyên. Trong Luật đất đai hiện hành và Dự thảo Luật đất đai sửa đổi, ngay phần mở đầu lại khẳng định đất đai là tài nguyên. Tuy nhiên, trên lãnh thổ một quốc gia, đất đai không phải là tài nguyên mà là tài sản. Đất đai là một thứ tài nguyên một khi chưa có bàn tay con người can thiệp vào. Tuy nhiên, khi tài nguyên bắt đầu có sự kết tinh của bàn tay con người vào thì nó bắt đầu có giá trị sử dụng trực tiếp và đất đai - tài nguyên đã trở thành đất đai - tài sản. Đối với một đất nước, đất đai là thứ tài sản "vô giá, thiêng liêng" và không giới hạn. Đất đai "vô giá, thiêng liêng" vì con người trên quốc gia ấy đã bỏ công sức và xương máu để giữ gìn và phát triển. Tài sản đất là không giới hạn vì đất là vĩnh cửu và đất của một nước là không thể chia sẻ và thay đổi. Khi luật đã quy định và quản lý đất đai như một tài nguyên, chúng ta đã phạm phải hàng loạt những sai lầm nghiêm trọng trong nguyên tắc quản lý tài sản.

Câu trả lời:

2,

Tính chất nhiệt đới thế hiện rõ nét qua yếu tố bức xạ. Lượng bức xạ tổrig cộng trung bình năm từ 110-130 kcal/cm2; cán cân bức xạ quanh năm dương từ 85-110Kcal/cm2, đạt tiêu chuẩn của khí hậu nhiệt đới và á xích đạo. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở hầu hết mọi nơi trong cả nước thường từ 22-25°C, ở Hà Nội là 23,5°c và ở Thành phố Hồ Chí Minh tới 27,1°c. Tính chất nhiệt đới của khí hậu Việt Nam còn được biểu hiện qua sự tham gia của gió Mậu dịch thổi thường xuyên từ khu vực áp cao Tây Thái Bình Dương ở chí tuyến Bắc về Xích đạo qua lãnh thổ nước ta. Về mùa đông, gió Mậu dịch thổi theo hướng đông và đông bắc; nó chỉ khác với gió mùa Đông Bắc ở tính chất nóng và khô. Về mùa hạ, gió Mậu dịch thổi theo hướng đông nam xen kẽ với gió mùa Tây Nam. - Tính chất gió mùa Tính chất gió mùa là sự biến thiên theo mùa của khí hậu Việt Nam, mà nguyên nhân hình thành chính là do sự luân phiên hoạt động của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Trên lãnh thổ nước ta, nơi nào cũng có mùa khô và mùa mưa xen kẽ với các mức độ khác nhau, kể cả có sự lệch pha của mùa mưa và mùa khô của một số địa phương so với cả nước. + Gió mùa mùa đông Hệ thống gió mùa đông thường được gọi là gió mùa Đông Bắc hoạt động chủ yếu trong thời kì mùa đông, mang đến các khối không khí lạnh và khô ở vùng cực đới làm cho Việt Nam có một mùa đông lạnh so với các vùng có vùng vĩ độ tương tự. Gió mùa Đông Bắc ảnh hưởng tới Việt Nam theo từng đợt và theo các thời kì khác nhau. Bản chất của gió mùa Đông Bắc là sự di chuyển của khối không khí cực đới lục địa (NPc) từ vùng áp cao Xibia thổi về khiến trời trở lạnh và từ tháng 11 dấn tháng 3. Còn trong các tháng đầu và cuối mùa đông các đợt gió mùa Đông Bắc xuất phát từ vùng áp cao Trung Hoa nên thường yếu và ít lạnh hơn. Có thể nhận biết và theo dõi diễn biến của các đợt hoạt động của gió mùa Đông Bắc bằng sự di chuyển của các frông lạnh được hình thành giữa khối không khí cực mới đến và các khối không khí nóng hơn đang tồn tại ở Việt Nam. Mỗi khi frông cực tràn về nhiệt độ giảm đi nhanh chóng, trung bình khoảng 3-5°C/24 giờ, có khi đến 5-10°C/24 giờ, thậm chí khu Đông Bắc, nhiệt độ có thế giảm trên 10°C/24 giờ. Sự biến thiên về độ ẩm và lượng mưa mỗi khi frông cực tràn về có phần phức tạp hơn, tuỳ thuộc vào địa hình và quãng đường di chuyến. + Gió mùa mùa hạ Ở Việt Nam gió mùa mùa hạ có hướng thịnh hành là hướng tây nam với nguồn gốc không đồng nhất do mang theo hai khối không khí khác nhau là khối không khí nhiệt đới biển Bắc Ân Độ Dương và khôi không khí xích đạo. Khối không khí nhiệt đới biển Bắc Ân Độ Dương (hay còn gọi là khối không khí chí tuyến vịnh Bengan -TBg) có nguồn gốc biển nên nóng và ẩm, thường mang đến những trận mưa đầu mùa hạ. Ảnh hưởng của khối không khí này trên lãnh thổ nước ta có những nét khác nhau đối với từng khu vực. Ở Nam Bộ và Tây Nguyên hay có mưa dông nhiệt. Càng lên phía bắc và sang sườn Đông của dãy núi Trường Sơn, do chịu hiệu ứng phơn, khối không khí này đã mang lại thời tiết rất khô nóng, nhiệt độ có thể lên tới 37°c và độ ẩm tương đối xuống thấp dưới 45%, được gọi là gió Lào hay gió Tây. Gió Tây tác động mạnh từ Nghệ An đến Quảng Trị và rải rác ở các khu vực phía đông của các dãy núi chạy dọc biên giới Việt - Lào và dãy núi Trường Sơn (khu Tây Bắc, Bình Định, Phú Yên, và đôi khi có ảnh hướng tới tận đồng bằng Bắc Bộ). Thời gian hoạt động của gió Tây vào khoảng từ tháng 5 đến tháng 8. Gió Tây thường thổi từng đợt, đợt ngắn 2-3 ngày, đợt dài thì có thể tới 10 - 15 ngày với cường độ mạnh nhất vào buổi trưa và đến buổi chiều. Khối khí Xích đạo (Em) được hình thành từ bán cầu Nam vượt qua Xích đạo và thổi đến Việt Nam thành gió mùa Tây Nam. Đến lãnh thổ nước ta các thuộc tính về nhiệt và ẩm của khối không khí xích đạo tuy có sự biến tính ít nhiều nhưng vẫn giữ được bản chất là nóng và ẩm: nhiệt độ từ 26°-30°C, độ ấm tương đối 85 — 90%. Tầng ẩm rất dày do tác dụng hội tụ và thăng lên của không khí trên dải hội tụ nhiệt đới. Khối khí xích đạo hoạt động ở miền Nam nước ta nhiều hơn ở miền Bắc do thời gian đường hội tụ nhiệt đới nằm ở phía nam dài hơn, từ tháng 6 đến tháng 10, còn ở đồng bằng Bắc Bộ thì chỉ mạnh nhất vào tháng 8, gây ra kiểu thời tiết mưa Ngâu.