Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nam Định , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 1
Số lượng câu trả lời 9
Điểm GP 2
Điểm SP 3

Người theo dõi (0)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau đớn tủi hổ vô cùng. Tác giả đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trước cái tin dữ đó. Thoạt đầu, nghe được tin đột ngột từ người đàn bà tản cư nói ra, ông Hai bàng hoàng đến sững sờ. “Cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. “Ông snh ra nghi ngờ, cố chưa tin vào cái tin ấy. Nhưng những người tản cư đã kể rành rọt quá làm ông không thể không tin”. Từ lúc ấy, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, ray rứt với mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi.
Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, tủi thân khi nhìn đàn con. “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?” Ông giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội. Tủi thân, ông Hai thương con, thương dân làng chợ Dầu, thương thân mình phải mang tiếng là dân lang Việt gian.
Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở xó nhà, nghe ngóng binh tình bên ngoài. Ông sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ và nhục nhã. Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại “lủi ra một góc nhà nín thít”.
Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản cư. Ông cảm nhận được hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống: “Biết đi đâu bây giờ”. Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm. Ông nghĩ hay là quay về làng nhưng lại hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội Cụ Hồ. Thế rồi ông đã dứt khoát theo cách của ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Rõ ràng, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng. Vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ.
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta thấy rõ 1 tình cảm sâu nặng và bền chặt với cái làng chợ Dầu, 1 tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của con người ông Hai. Tình cảm đó là sâu nặng và thiêng liêng.

Câu trả lời:

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ đc viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nc.

Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong wá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.

Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngn6 từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ wá khứ đc tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của ngân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lủa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành ; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.

Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bêp lửa gắn chặt với hinh ảnh người bà, bếp lửa của 1 thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Chàu thương bà biết mấy nắng mưa”
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa ko định hìnhm khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những z đã wa, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợil ên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” đc lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tương xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” ko chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ.
“Lên 4 tuổi….
…còn cay !”
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thừong sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, “bố đi đánh xe khô rạc ngưạ gầy”. Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất v gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. “Mùi khói” rồi lại” khói hun nhèm”, có thể nói nhà thơ đã chọn đc mội chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. “Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tỏa ra từ 1 bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ “nghĩ lại …. cay” tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ BV có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật. giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói … mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thưc, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.

Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh.
“Tám năm ròng….
…trên những cánh đồng xa.”
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong 1 câu chuệyn cỏ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu tròng hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tươbg đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói”, thì đến đây, xuất hiện 1 ấn tượng khác là “tiếng tu hú”. Lúc mơ hồ, vắng lặng “trên những cánh đồng xa”., lúc gần gũi, nghẹn ngào “sao mà tha thiết thế”, tiếng tu hú như than thở, sẽ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, BV wả là có 1 tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.

Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ “bà” đc lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà-cháu” són đôi gợi sắc đêịu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc laòi chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà ko đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nõi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thưong yêu, xót xa của nhà thơ trc nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.

Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm kháng chiến.
“Năm giặc …
…. bình yên!”.
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền cững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu, mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố – Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ .” Gian khổ, thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa đc yên lòng. Tấm lòng người bà thương con thương cháu ân cần, chu đáo biết bao.
“Rồi sớm rồi chiều….
…dai dẳng.”
Trong những câu của khổ thơ này, hình ảnh “bếp lửa” đã chuyển thành “ngọn lửa” trong ý nghĩ tượng trưng, khái quát. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng, trường tồn.

Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của 1 thanh niên đã trường thành đối với người bà trong hiện tại.
“Lận đận ….
….bếp lửa!”
Chiến tranh đã đi wa, những gian khổ đã vơi bớt, cuôc sống đã đổi thay nhưng bà vẫn giữ thói quen “thói quen dậy sớm”, bếp lửa của bà vẫn “ấp iu nồng đượm” nhuw ngày nào. Điệp từ nhóm đc nhắn lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét “kỳ lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trc đây, đó là ngọn lửa nồng đươm nhóm niềm tin trong những ngày gian khổ, khó khăn vì vật vã đói kém., thì bây giờ ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn và cách sống. Âm đệiu trong đạon thơ này dạt dào như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ?Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cam nhớ thương nhân nghĩa! Có thể nói câu thơ cuối bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn BV. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là 1 dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ ko thể diễn tả hết bằng ngôn từ.

Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình.
“Giờ cháu đã ….
….bếp lửa lên chưa?…”
Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay ngừoi bà. Đaứ cháu ấy đã đc mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu” , “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, tậht hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc (tui chưa bị ám:33. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thân của đứa cháu ở phưong xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là 1 hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc.

“Bếp lủa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật ko ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi wa đói khát và chiến tranh, đã cho cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm tầhm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ VN, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.

Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người ko thể nào quên đc. BV đã có đc 1 tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm & giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà BV gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người.

Câu trả lời:

Câu 1.

· Bài thơ là lời người cháu nơi xa nhớ về bà bà những kỉ niệm với bà, nói lên lòng kính yêu và những suy ngẫm về bà.

· Bố cục : bài thơ có 4 phần :

- Phần 1 ( 3 dòng đầu) : hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.

- Phần 2 ( từ “ lên bốn tuổi”… “niềm tin dai dẳng&rdquo[​IMG] : Những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh người bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong hồi tưởng của cháu.

- Phần 3 ( từ “ lận đận đời bà”…đến “ thiêng liêng bếp lửa&rdquo[​IMG] : suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.

- Phần 4 : còn lại. hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu.



Câu 2.

· Trong tưởng tượng của người cháu, những kỉ niệm giữa bà và cháu được gợi lại : đó là những kỉ niệm thời thơ ấu :

- Kỉ niệm về một tuổi thơ nhọc nhằn gian khổ :

+ 4 tuổi cháu đã “ quen mùi khói”, phải sớm lo toan.

+ Tuổi thơ của “ cháu” có bóng đen của nạn đói ghê rợn năm 1945, có cái gian khổ chung của thời kháng chiến chống Pháp : giặc tàn phá xóm làng, bố đi đánh xe, mẹ cùng cha công tác bận không về….

+ Cháu sống và lớn lên trọng sự yêu thương, nuôi nấng, chăm bẵm, dạy bảo của bà : “ cháu ở cùng bà…bà chăm cháu học”.

+Kỉ niệm tuổi thơ của cháu gắn liền với bếp lửa, cho nên nhớ về tuổi thơ, nhân vật trữ tình “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu – Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. => cảm xúc chân thực và xúc động.

+ cháu nhớ về những sự chăm chút yêu thương, dạy bảo của bà : bà hay kể chuyện những ngày ở Huế, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, bà dặn cháu đinh ninh …=> tình bà càng ấm áp bên bếp lửa.

+ Kỉ niệm về tiếng chim tu hú tuổi thơ : cháu tha thiết nhớ “ tu hú kêu trên những cánh đồng xa”, trong lời kể chuyện của bà, có cả “ tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu mong mỏi :

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kê chi hoài trên những cánh đồng xa !



· Trong bài thơ, khi tác giả kể về những kỉ niệm tuổi thơ của mình, đã vừa kể, vừa miêu tả lại tuổi thơ đầy nhọc nhằn gian khổ, qua đó, bộc lộ tình cảm thương yêu, mong mỏi của cháu với bà. Những tình cảm của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà, nhớ về quê hương vừa chân thực lại vừa xúc động. Sự kết hợp đó đã khiến cho hình ảnh của người bà hiện lên thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ hiện về sống động và chân thành, giản dị.



Câu 3.

· Phân tích hình ảnh bếp lửa ( ý chính) :

- Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên của bài thơ, cũng là hình ảnh khơi gợi cảm xúc cho tác giả ở toàn bài. Ba tiếng “ một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, hình ảnh thân thiết trong mọi gia đình.

- Hình ảnh bếp lửa đánh thức dòng cảm xúc tự nhiên của cháu về bà : cháu nhớ về những kỉ niệm, những sự chăm chút, yêu thương, dạy dỗ của bà.

- Hình ảnh bếp lửa gợi cho cháu những suy ngẫm, những yêu thương về cuộc đời người bà chịu thương chịu khó.

- Từ hình ảnh bếp lửa của bà, đã phát triển thành hình ảnh ngọn lửa : đó là ngọn lửa của niềm tin, của tình yêu thương, ngọn lửa của sức sống lặng thầm mà mãnh liệt.



· Hình ảnh bếp lửa được nhắc đến 6 lần.Khi nhắc đến bếp lửa, cháu nhớ ngay đến bà, và khi nhắc đến bà, cháu nhớ ngay đến bếp lửa, bởi lẽ, từ thơ ấu, hình ảnh bếp lửa và bà đã gắn kết với nhau. Hình ảnh của bà luôn gắn liền với bếp lửa. Trong những kỉ niệm tuổi thơ, hình ảnh người bà và hình ảnh bếp lửa là hai thứ in dấu sâu đậm nhất trong lòng tác gỉa, hai hình ảnh gắn liền nhau, gần gũi, không tách rời. Hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gắn liền với mọi hoạt động của bà, gắn liền với tình yêu thương mà bà dành cho cháu.

· Hình ảnh bếp lửa, là hình ảnh chủ đạo, khơi gợi dòng cảm xúc của cháu về bà, rồi từ đó phát triển xuyên suốt toàn bộ mạch thơ. Từ hình ảnh bếp lửa yêu thương, tác giả đã đem nó phát triển thành hình ảnh ngọn lửa của niềm tin, của sức sống dai dẳng, mãnh liệt.

· Tác giả viết “ Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !” : từ hình ảnh bếp lửa bình dị và quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều kì diệu, thiêng liêng : đó là ngọn lửa từ bàn tay bà với tình yêu thương trìu mến đã nuôi lớn tuổi thơ cháu, đã “ nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Trong cảnh côi cút, bà lặng lẽ hi sinh cho con cháu và cho tất cả mọi người. Từ bếp lửa của bà, cháu nhận ra cả “ một niềm tin” dai dẳng vào tương lai, vào ngày mai đất nước, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa :

“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi cơm gạo mới sẻ chung vui”.



Câu 4.

· Ở hai câu trên, tác giả dùng hình ảnh “ ngọn lửa” chứ không nhắc lại hình ảnh “ bếp lửa”, bởi lẽ, từ những thứ mà bếp lửa mang lại, theo mạch cảm xúc đã phát triển thành hình ảnh “ ngọn lửa” bất diệt, cháy mãi, dai dẳng. Ngọn lửa chính là trái tim, là tấm lòng, là tâm hồn bà như bao người VN. Một niềm tin bất diệt lạ lùng. Chính đức tin của bà được ấp ủ, rồi truyền sang cho con cháu như truyền lửa vào thế hệ sau. Một ngọn lửa luôn bùng cháy trong lòng bà và cháu, là ngọn lửa hi vọng của ngày mai thanh bình.



Câu 5. Trong bài thơ, tình cảm của bà cháu được thể hiện bình dị, gần gũi và rất chân thành. Đó là tình yêu thương của bà và cháu cũng như cháu đối với bà, sự kính trọng, sự nhung nhớ của người cháu với bà, với quê hương.

Bên cạnh tình bà cháu thân thương, giản dị, còn là tình yêu quê hương, đất nước. Là niềm tin bất diệt về tương lai tươi sáng của cả dân tộc. Khi cháu “ đã đi xa”, đã có “ khói trăm tàu”, có “ lửa trăm nhà”, có “ niềm vui trăm ngả”, là niềm vui của quê hương, của đất nước, nhưng cháu vẫn không quên được tình yêu thương của bà, vẫn nhớ về bếp lửa với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm, cuộc sống khó khăn nhưng vẫn đầy niềm tin vào cuộc sống.